QĐND - Đồng thời với quyết tâm mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, thực hiện kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954, trên các chiến trường cả nước, phối hợp nhịp nhàng với chiến dịch, ta đã liên tục tiến công tiêu diệt địch, gây nhiều khó khăn, tổn thất cho chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng giành toàn thắng; phá tan kế hoạch Na-va, buộc Pháp phải ký hiệp định đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Tại Đồng bằng Bắc Bộ, ta đẩy mạnh hoạt động vùng địch hậu, đánh giao thông trên đường số 5 và đường số 1; phát triển cơ sở nhiều nơi, đẩy mạnh chiến tranh du kích..., làm cho địch không còn nhiều lực lượng cơ động để càn quét mà chủ yếu lo chống đỡ và bảo vệ các vị trí đã chiếm.

Lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Quân đội Nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng Đờ-Cát. Ảnh: TTXVN

Tối 31 tháng 1 năm 1954, Đại đội 295 bộ đội địa phương Kiến An tập kích vào sân bay Đồ Sơn, một sân bay nhỏ, dùng riêng cho các máy bay vận tải nhẹ, diệt Sở chỉ huy sân bay, phá hủy 5 máy bay, đốt cháy 5 triệu lít xăng dầu, loại khỏi chiến đấu hơn 100 tên địch. Đây là trận tập kích đầu tiên của bộ đội ta vào sân bay của quân Pháp, nằm trong kế hoạch đánh các sân bay, cơ sở hậu cần lớn của Liên khu 3 trong chiến cục Đông Xuân 1953-1954, phối hợp tác chiến với Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Tiếp đó, ngày 5 tháng 3 năm 1954, Đại đội 295 tiến hành tập kích sân bay Cát Bi, một sân bay quan trọng của Pháp nằm sâu trong vùng địch tạm chiếm, một trong những đầu cầu hàng không chủ yếu, trực tiếp chi viện cho Điện Biên Phủ. Trận đánh táo bạo, đạt hiệu suất chiến đấu cao, phá hủy 59 máy bay, diệt 1 tiểu đội lính Âu-Phi đi tuần và 1 tiểu đội lính canh gác, góp phần phát triển chiến tranh du kích trong chiến cục Đông Xuân 1953-1954, hỗ trợ đắc lực cho Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đơn vị đánh sân bay Cát Bi được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng danh hiệu “Đoàn dũng sĩ Cát Bi” và được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất.

Trên các khu vực khác, trong tháng 3 và tháng 4 năm 1954, ta tiêu diệt một số vị trí địch trên đường số 5 khu vực Hải Dương; chống địch càn quét ở Hạ Bằng - Sơn Tây; tập kích vào Lai Xá; phục kích ở Đông Biên, Lạc Quần - Nam Định; phục kích trên đường số 5 đoạn Văn Lâm - Như Quỳnh,... diệt nhiều địch và thu nhiều vũ khí, đạn dược.

Tại Trung Bộ, ta phục kích địch ở Thượng An - Plei-ku; ở đèo Măng Giang gần An Khê; tiêu diệt nhiều địch ở An Hòa, Thừa Thiên, thu nhiều vũ khí.

Đầu năm 1954, mặc dù được cơ quan tình báo cho biết chủ lực của ta có thể tiến công Điện Biên Phủ vào thời điểm gần, nhưng Na-va, Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương vẫn mở cuộc hành quân Át-lăng, tiến công đánh chiếm toàn bộ vùng tự do Liên khu 5 và coi đây là một bộ phận chủ yếu trong kế hoạch chiến lược Na-va.

Dựa vào làng xã chiến đấu, quân và dân Phú Yên đã kiên cường đánh địch, bảo vệ nhân dân, bảo vệ căn cứ. Trong 10 ngày, các đại đội 377, 389 và du kích các xã Hòa Hiệp, Hòa Kiến, Hòa Thành đã phân tán đánh nhỏ, phục kích các đoàn xe vận tải…, loại khỏi chiến đấu gần 800 quân địch. Phối hợp với Phú Yên, quân và dân Khánh Hòa liên tục tập kích, quấy rối các đồn bốt, đánh phá giao thông gây cho địch nhiều khó khăn, lúng túng.

Thực hiện kế hoạch phối hợp tác chiến với các chiến trường trong chiến cục Đông Xuân 1953-1954, đặc biệt là phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, tại Tây Nguyên, đầu năm 1954, Bộ tư lệnh Liên khu 5 tập trung 2 trung đoàn chủ lực 803 và 108 mở chiến dịch tiến công nhằm tiêu diệt sinh lực và làm phân tán lực lượng cơ động chiến lược của địch. Ngày 27 tháng 1 năm 1954, quân ta tiêu diệt các cứ điểm Măng Đen, Măng Bút, Kon Brây, tiếp đó, tiêu diệt các cứ điểm xung quanh thị xã Kon Tum và đưa quân áp sát thị xã.

Trước đòn tiến công mạnh mẽ của chủ lực ta ở Tây Nguyên, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp buộc phải ra lệnh rút quân khỏi thị xã Kon Tum, đồng thời tạm dừng cuộc hành quân Át-lăng, đưa phần lớn lực lượng ở Phú Yên lên tăng cường phòng thủ Quốc lộ 19 và nam Tây Nguyên. Quân dân Quy Nhơn, Tuy Phước do được chuẩn bị trước đã nhanh chóng tổ chức lực lượng chống càn, tập kích, phục kích, ngăn chặn, tiêu hao, kìm chân địch, gây cho chúng nhiều tổn thất.

Cuộc chiến đấu của quân dân Phú Yên đã làm cho địch không dám đưa hết lực lượng ở đây đánh ra Quy Nhơn, mà phải rút GM41 từ Diêu Trì, Bình Định về phòng thủ Tuy Hòa. Cùng thời điểm đợt 2 cuộc hành quân bắt đầu, ở Bắc Bộ, chủ lực ta mở chiến dịch tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, buộc Na-va phải điều binh đoàn cơ động dù quay gấp ra Hà Nội để ứng phó với diễn biến tình hình ở Điện Biên Phủ. Trên hướng Tây Nguyên, các trung đoàn chủ lực của Liên khu 5 đã đánh mạnh, phá vỡ từng mảng thế trận phòng ngự của địch ở nam Tây Nguyên và gần như làm chủ Quốc lộ 19.

Trước tinh thần tự lực chiến đấu của quân dân hai tỉnh Phú Yên, Bình Định và cuộc tiến công mạnh mẽ của ta trên chiến trường Tây Nguyên và các chiến trường trong cả nước, cuộc hành quân Át-lăng của Pháp đã hoàn toàn thất bại; Pháp đã không thực hiện được mục tiêu xóa bỏ vùng tự do và các trung đoàn chủ lực của Liên khu 5 mà còn bị quân và dân ta đánh thiệt hại nặng, bị phân tán lực lượng cơ động, giảm khả năng chi viện cho chiến trường khác. Đây là cuộc hành quân lớn của Na-va ở chiến trường miền Trung, cuộc hành quân đã tập trung nhiều binh đoàn cơ động và một lực lượng lớn không quân, làm giảm khả năng chi viện của quân Pháp ra chiến trường chính Bắc Bộ và Điện Biên Phủ đang bị lâm nguy.

Chia lửa với Điện Biên Phủ, tại Nam Bộ, quân ta đã phá 1.200 đồn bốt địch, diệt hàng nghìn tên địch, phá hủy 132 xe, bắn đắm 20 tàu. Đặc biệt, trận đánh kho Phú Thọ, quân ta phá 1.774 tấn thuốc nổ, 943 tấn đạn và 9 triệu lít xăng.

Kết quả, các chiến trường phối hợp trong toàn quốc đã loại khỏi vòng chiến đấu 126.070 tên địch, trong đó có 17.603 tên bị tiêu diệt.

Tại Hạ Lào và Cam-pu-chia, trong tháng 4 năm 1954, Trung đoàn 66 và Trung đoàn 18 hoạt động thu hút địch ở Xê-nô, Trung đoàn 101 vượt sông Mê Kông đánh địch ở Chăm-pa-xắc, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch ở đây, bắt sống Phó vương Bun-ùm ở Đôn-ta-lạt. Cuối tháng 4 năm 1954, Trung đoàn 101 tiến vào Đông Bắc Cam-pu-chia, tiêu diệt nhiều đồn bốt địch, giải phóng một vùng rộng lớn ở đông nam tỉnh Prét-vi-hia và đông bắc tỉnh Công Pông Thơm, bắt liên lạc với Quân giải phóng Ít-sa-rắc... Địch đã phải điều quân tăng cường cho Trung, Hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia lực lượng gấp 3-4 lần nhưng cũng không cứu nổi thất bại.

Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi với sức mạnh to lớn của quân và dân ta tại mặt trận này, đồng thời đó cũng là sức mạnh, sự phối hợp tác chiến có hiệu quả của các chiến trường trong cả nước và toàn Đông Dương. Sự phối hợp chặt chẽ liên tục tiến công tiêu diệt địch ở khắp nơi, buộc chúng phải căng kéo lực lượng bị động đối phó, liên tiếp thất bại và cuối cùng phải chấp nhận đầu hàng.

Sự phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường để tạo thành sức mạnh to lớn, tiêu diệt địch trong kháng chiến chống Pháp nói chung và trong Chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng là bài học hết sức ý nghĩa. Trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược và bảo vệ Tổ quốc, bài học đó tiếp tục được quân và dân ta phát huy, phát triển với trình độ ngày một cao, trở thành nghệ thuật quân sự của quân đội ta. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay và cả trong tương lai, bài học đó vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục được phát huy và phát triển.

Đại tá, TS NGUYỄN THÀNH HỮU