QĐND - Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở cực Nam của Tổ quốc; trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thuộc địa bàn của Quân khu 8 và Quân khu 9, là vùng đồng bằng, sông rạch chằng chịt, xa sự chỉ đạo của Trung ương, xa sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc XHCN. Xuất phát từ đặc điểm đó, trong các cuộc kháng chiến, quân và dân Đồng bằng sông Cửu Long luôn phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần tự lực, tự cường tiến hành chiến tranh nhân dân tại địa phương. Trong thử thách ác liệt, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục và Quân ủy Miền, quân và dân Đồng bằng sông Cửu Long đã nắm bắt kịp thời các chủ trương của Đảng, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với thực tế chiến trường, vượt qua nhiều khó khăn gian khổ để chiến thắng quân thù, qua đó tạo nên những nét đặc sắc, mang tính đặc thù của chiến trường đồng bằng nhiều sông rạch. Một trong những nét đặc sắc và nổi bật nhất là quyết tâm mở đường và mở đường thành công để vận chuyển, tiếp nhận vũ khí, hàng quân sự và các lực lượng của Trung ương chi viện cho chiến trường Đồng bằng sông Cửu Long bằng Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Ảnh minh họa/ Internet

Quân và dân Đồng bằng sông Cửu Long đã mở đường, tổ chức tiếp nhận, cất giữ, vận chuyển vũ khí đi các chiến trường trong điều kiện bị kẻ thù kiểm soát gắt gao, đánh phá ác liệt. Đây là cả một quá trình đấu trí, đấu lực giữa ta và địch, và ta đã chiến thắng. Đó là chiến thắng của bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc Việt Nam nói chung, của quân và dân Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị mở đường vận tải chiến lược trên biển để nhanh chóng vận chuyển vũ khí, phương tiện chiến tranh và cán bộ vào chi viện cho chiến trường miền Nam, Trung ương Cục miền Nam giao nhiệm vụ cho các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long tổ chức tàu thuyền và cử cán bộ đi bằng đường biển ra miền Bắc báo cáo với Bộ Chính trị về khả năng mở đường vận tải trên biển. Ngay trong tháng 8-1961, các tỉnh Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre, Bà Rịa đã tổ chức ghe vượt biển xoi mở đường ra Bắc. Hành trình tuy gặp nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng các tỉnh đều tổ chức những chuyến đi ra đến miền Bắc an toàn. Đây là những người con ưu tú đại diện cho quân và dân miền Nam anh dũng vượt biển ra miền Bắc tiếp nhận vũ khí, mang theo khát vọng và niềm tin của nhân dân miền Nam đến với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng. Từ kết quả đó dẫn đến việc ngày 23-10-1961, Đoàn 759 - Đoàn Vận tải quân sự đường biển ra đời, khẳng định quyết tâm của Đảng ta và đánh dấu bước phát triển mới trong công tác tổ chức vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển.

Từ đây, các phương án vận chuyển táo bạo, bí mật, bất ngờ trên biển và công tác xây dựng bến bãi, kho trạm bí mật tại Đồng bằng sông Cửu Long để tiếp nhận hàng chiến lược do Trung ương chi viện được xúc tiến khẩn trương. Cũng từ thời điểm này, bắt đầu xuất hiện những chiếc tàu của Đoàn 759 vượt biển Đông, vận chuyển các loại vũ khí, phương tiện, lực lượng chi viện cho chiến trường miền Nam, làm nên kỳ tích “Đường Hồ Chí Minh trên biển”.

Để tiếp nhận có hiệu quả vũ khí, hàng quân sự và cán bộ từ miền Bắc chi viện bằng đường biển vào đến chiến trường Nam Bộ thuận lợi, ngày 19-9-1962, Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập Đoàn 962. Đoàn có nhiệm vụ xây dựng và mở rộng các bến tiếp nhận hàng dọc bờ biển từ Cà Mau đến Bà Rịa; đón nhận hàng do Đoàn 759 (sau là Đoàn 125) chuyển vào; tổ chức vận chuyển đi các chiến trường theo kế hoạch phân phối của Trung ương...

Trong một thời gian ngắn, nhờ sự giúp đỡ tận tình của quân và dân, các cấp ủy địa phương, Đoàn 962 đã mở xong các bến tiếp nhận và kho chứa hàng trong những khu rừng ven biển. Để đưa được vũ khí, hàng quân sự đến tận chiến trường, Đoàn phải tổ chức vận chuyển bằng nhiều hình thức, nhiều tuyến đường, nhiều điểm giao nhận hàng; phải luồn lách vượt qua nhiều đồn bót và mọi sự ngăn chặn đánh phá của địch. Lực lượng dân công các địa phương đảm nhận công việc vận chuyển hàng hóa trên tuyến hành lang, các đội vận tải quân sự đóng vai trò nòng cốt. Theo kế hoạch, đêm đêm từng đoàn người lặng lẽ dùng xuồng, xe trâu, xe bò hoặc mang vác bộ, đưa hàng đến các điểm quy định. Cứ như thế, những thùng, kiện vũ khí, hàng quân sự được giao tận tay các đơn vị trên khắp chiến trường Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Sau này, việc vận chuyển phát triển sang phương thức mới, hợp pháp bằng tàu hai đáy, Bộ tư lệnh Quân khu 9 thành lập Đoàn 950 (sau gọi là Đoàn 371) cùng với Đoàn 962 tiếp nhận, vận chuyển cán bộ, vũ khí, vật chất chiến tranh cho LLVT các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

Quá trình tổ chức mở đường, tiếp nhận, xây dựng bến bãi, kho tàng và vận chuyển vũ khí, hàng chi viện của Trung ương từ miền Bắc vào bằng đường biển ở chiến trường Đồng bằng sông Cửu Long trong kháng chiến chống Mỹ là một mặt trận chiến đấu ác liệt giữa ta và địch. Trong tổ chức mở đường, tiếp nhận, bảo quản và vận chuyển phải hết sức sáng tạo, linh hoạt, nhạy bén, kịp thời thay đổi các phương thức: Bí mật, công khai, hợp pháp, bán công khai... nắm vững quy luật hoạt động của địch mà hành động nhanh chóng, kịp thời. Khi chiến tranh diễn ra với quy mô ngày càng lớn, LLVT phát triển thì nhu cầu vật chất kỹ thuật càng lớn; yêu cầu về bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật, dự trữ bổ sung vật chất, lực lượng rất cao và rất khẩn trương... Vì vậy, sự chi viện của Trung ương qua Đường Hồ Chí Minh trên biển có ý nghĩa đặc biệt đối với quân và dân Đồng bằng sông Cửu Long. Từ Đường Hồ Chí Minh trên biển, quân và dân Đồng bằng sông Cửu Long đã phát triển những tuyến vận tải nội địa trên sông, rạch trên địa bàn, xây dựng bến bãi, tiếp nhận bảo quản và vận chuyển phân phối, sử dụng có hiệu quả các nguồn chi viện to lớn về sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc, bảo đảm cho quân và dân Đồng bằng sông Cửu Long chiến đấu và chiến thắng, góp phần cùng cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trung tướng Trần Phi Hổ*

* Tư lệnh Quân khu 9