Đoàn chủ tịch hội thảo gồm các đồng chí: Thiếu tướng Lương Văn Kiểm, Tư lệnh Quân khu 3; Thiếu tướng Khúc Thành Dư, Phó chính ủy Quân khu 3; Thiếu tướng Đoàn Xuân Bộ, Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân.  


Trung tướng, PGS, TS NGÔ TRỌNG CƯỜNG, Phó giám đốc Học viện Quốc phòng:

Phát huy giá trị địa bàn chiến lược, xây dựng phòng thủ Quân khu vững chắc    

Quân khu 3 là địa bàn chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại... Trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc cũng như trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Quân khu 3 luôn được Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng thành “hậu phương quốc gia, đồng thời là mặt trận chống quân xâm lược” và đã lập nên những chiến công oanh liệt, góp phần quan trọng tô thắm truyền thống anh hùng của dân tộc, của Quân đội ta, truyền thống của mỗi địa phương; xây đắp nên truyền thống của Quân khu “Đoàn kết, chủ động, sáng tạo, hy sinh, chiến thắng”; xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

 

Để phát huy giá trị địa bàn chiến lược trọng yếu trong các cuộc kháng chiến vào xây dựng phòng thủ Quân khu 3 vững chắc thời kỳ mới, cấp ủy, chính quyền địa phương và cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Quân khu cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân và LLVT về vị trí địa lý, tầm quan trọng chiến lược của địa bàn Quân khu đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, sự quản lý, điều hành của chính quyền trong xây dựng phòng thủ Quân khu, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh... Tập trung xây dựng LLVT Quân khu tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, có chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Cùng với đó, thường xuyên coi trọng xây dựng thế trận phòng thủ Quân khu gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là tiếp tục hoàn chỉnh thế trận khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; cụm làng, xã chiến đấu; căn cứ hậu phương; cơ sở hạ tầng bảo đảm chiến đấu, tạo thành thế liên hoàn, vững chắc, toàn diện, hợp thành thế trận phòng thủ Quân khu trong điều kiện các tỉnh, thành phố mới sáp nhập... góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

-------------

Thiếu tướng NGUYỄN ĐỨC DŨNG, Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu 3:

Đúc rút bài học trong kháng chiến vào xây dựng phòng thủ Quân khu hiện nay

Những kinh nghiệm đúc kết trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược trên địa bàn Quân khu 3 là tài sản tinh thần, cơ sở quan trọng để quân và dân Quân khu 3 tiếp tục nghiên cứu, vận dụng xây dựng phòng thủ Quân khu vững chắc, LLVT vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.

 

Trong các cuộc kháng chiến, Quân khu 3 và các địa phương trên địa bàn đã làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về đường lối kháng chiến, truyền thống đấu tranh của dân tộc, lòng tin của nhân dân với Đảng, vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến; xây dựng khối đại đoàn kết, tinh thần tự lực, tự cường và ý chí quyết tâm đánh đuổi kẻ thù; phối hợp với cấp ủy, chính quyền các địa phương lãnh đạo, chỉ đạo LLVT và nhân dân vừa đánh địch vừa xây dựng hậu phương kháng chiến vững mạnh...

Vận dụng, phát huy những thành công này, trong giai đoạn hiện nay, Quân khu và cấp ủy, chính quyền các tỉnh, thành phố trên địa bàn cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng cường giáo dục cán bộ, chiến sĩ nhận thức đầy đủ về đối tác, đối tượng, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức quốc phòng, an ninh cho toàn dân; tăng cường xây dựng mối đoàn kết quân dân, địa bàn an toàn; phối hợp tham gia phát triển cơ sở hạ tầng; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh và tìm kiếm cứu nạn.

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, hoạt động phòng thủ Quân khu và khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phù hợp với địa bàn đơn vị hành chính mới cùng yêu cầu tác chiến hiện đại. Thường xuyên rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch, thế bố trí quốc phòng gắn với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội phù hợp quyết tâm, kế hoạch tác chiến và địa giới hành chính. Xây dựng căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương cấp tỉnh, công trình quân sự trong khu vực phòng thủ; xây dựng các chốt chiến dịch, công trình chiến đấu trên các hướng chiến dịch, công trình phòng thủ tuyến biên giới, biển, đảo theo quyết tâm tác chiến đáp ứng với chiến tranh hiện đại...

------------

Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN VĂN SÁU, Phó viện trưởng Viện Chiến lược và Lịch sử Quốc phòng Việt Nam:

Vai trò của Quân khu 3 trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa

Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, Quân khu 3 là khu vực chiến lược, giữ vị trí đặc biệt quan trọng; hướng phòng thủ trọng yếu, giữ vai trò kết nối, bảo vệ Thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận. Để giữ vững và phát huy vị trí, vai trò là “cửa ngõ”, “phên giậu” bảo vệ Thủ đô Hà Nội, cấp ủy, chính quyền, LLVT và nhân dân các tỉnh trên địa bàn Quân khu 3 tiếp tục quán triệt, thực hiện hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Triển khai đồng bộ các chủ trương, giải pháp xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trên địa bàn Quân khu, tạo sức mạnh tổng hợp của thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.      

 

Bên cạnh đó, nhằm tiếp tục xây dựng Quân khu 3 thành hậu phương chiến lược của cả nước trong tổng thể chiến lược chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, yêu cầu đặt ra là: Hoàn thiện quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng kết hợp với phát triển kinh tế-xã hội phù hợp yêu cầu thực tiễn; triển khai hiệu quả các dự án kinh tế kết hợp với quốc phòng gắn với xây dựng thế trận khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố; phát triển các ngành kinh tế gắn với tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp quốc phòng, sẵn sàng chuyển sang phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh khi cần thiết... Giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Từ thực tiễn lịch sử đến đòi hỏi hiện nay, để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, huy động sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu đặt ra đối với Quân khu 3 là giữ vững địa bàn chiến lược; phát triển tiềm lực quốc phòng gắn với kinh tế; nâng cao chất lượng tổng hợp của LLVT Quân khu...

Như vậy, từ lịch sử đến hiện tại và cả trong tương lai, có thể thấy rõ, với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về địa-chính trị, địa-quân sự, địa-kinh tế, Quân khu 3 giữ vai trò “lá chắn” bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Tăng cường sức mạnh tổng hợp của LLVT Quân khu là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

-----------

Đồng chí VŨ THỊ HÀ, Phó bí thư Đảng ủy UBND TP Hải Phòng:

Kết hợp kinh tế - quốc phòng trong chiến lược phát triển vùng Quân khu 3

Địa bàn Quân khu 3 có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, mật độ dân cư đông, tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh, tập trung nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp, hệ thống cảng biển và sân bay chiến lược. Đồng thời, Quân khu 3 cũng là tuyến đầu phòng thủ quan trọng hướng ra vịnh Bắc Bộ và Biển Đông, bảo vệ Thủ đô Hà Nội... Vì vậy, phát triển kinh tế gắn liền với củng cố quốc phòng trên địa bàn Quân khu 3 đòi hỏi tầm nhìn chiến lược dài hạn và sự nỗ lực chung của các địa phương trong vùng.

 

Đối với TP Hải Phòng, sau khi hợp nhất với tỉnh Hải Dương đã trở thành đô thị lớn thứ ba cả nước. Trong những năm qua, việc kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng trên địa bàn thành phố được triển khai hiệu quả trên nhiều phương diện. Trước hết là sự tích hợp yếu tố quốc phòng vào quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, định hướng đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2060, Hải Phòng phấn đấu trở thành trung tâm kinh tế biển, logistics và công nghiệp công nghệ cao gắn với quốc phòng, an ninh vùng Bắc Bộ và vành đai ven biển Đông Bắc.

Hệ thống cao tốc nối các tỉnh tạo nên mạng kết nối dọc ngang giữa nội địa và ven biển, phục vụ hiệu quả vận tải dân sự và quốc phòng. Cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện bảo đảm hậu cần quân sự cho khu vực Đông Bắc; sân bay quốc tế Cát Bi được quy hoạch có thể phục vụ trong các phương án quốc phòng. Về công nghiệp lưỡng dụng, trên địa bàn thành phố hiện có 43 khu công nghiệp với tổng diện tích hơn 15.000ha cùng 79 cụm công nghiệp. Nhiều ngành sản xuất có khả năng chuyển đổi phục vụ quốc phòng khi cần, như đóng tàu, cơ khí chế tạo, linh kiện chính xác, sản xuất điện tử và tự động hóa, hóa chất, vật liệu công nghệ cao.

Thành phố cũng quan tâm bảo đảm kinh phí cho thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương: Ưu tiên đầu tư các công trình trong khu vực phòng thủ; quy hoạch căn cứ chiến đấu, hậu phương, trường bắn, thao trường huấn luyện và hoàn thành nhiều trụ sở ban CHQS cấp xã; bảo đảm kinh phí quốc phòng, quân sự địa phương; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp với hơn 5.000 tổ chức cơ sở tại các xã, phường, doanh nghiệp, phát huy tốt vai trò nòng cốt trong nền quốc phòng toàn dân... Hải Phòng thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương, góp phần quan trọng vào tăng cường, củng cố quốc phòng trên địa bàn Quân khu.

-------------

PGS, TS CAO VĂN TRỌNG, Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương:

Chi viện đắc lực sức người, sức của cho tiền tuyến      

Năm tháng qua đi nhưng thắng lợi oanh liệt, vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sẽ mãi là niềm tự hào của mọi người con đất Việt. Trong thắng lợi vẻ vang đó có sự đóng góp to lớn của quân và dân Quân khu 3.

 

Với mục tiêu hủy hoại tiềm lực của miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, đế quốc Mỹ đã tập trung sức mạnh không quân, hải quân tiến hành hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc trên quy mô lớn (năm 1965-1968 và năm 1972). Trước tình hình đó, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3-1965) và lần thứ 12 (tháng 12-1965), Đảng quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc, trong đó có Quân khu 3 từ thời bình sang thời chiến, vừa chiến đấu vừa sản xuất. Quyết định này không chỉ giúp Quân khu 3 đủ sức chống trả, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ mà còn bảo đảm tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện vai trò hậu phương lớn chi viện cho miền Nam.

Dựa trên nền tảng của chế độ xã hội mới, Đảng đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm phát huy cao nhất vai trò của hậu phương Quân khu 3, chi viện đắc lực sức người, sức của cho tiền tuyến. Với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”; “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, Quân khu 3 đã phát động mạnh mẽ Phong trào “Toàn Quân khu hướng ra tiền tuyến”, “Toàn Quân khu ra trận”... Qua đó huy động quân và dân dốc sức chi viện đắc lực sức người, sức của cho tiền tuyến.

Về sức người, ngoài lực lượng chủ lực chiến đấu tại chỗ, bảo vệ hậu phương, Quân khu 3 đã xây dựng lực lượng chủ lực bổ sung cho các chiến trường gồm 4 sư đoàn hoàn chỉnh, 5 khung sư đoàn, 29 trung đoàn, 1.026 tiểu đoàn, 171 đại đội, nhiều phân đội binh chủng... Về vật lực, quân và dân Quân khu 3 cùng với quân dân các tỉnh miền Bắc đã đưa vào miền Nam hàng triệu tấn vũ khí, đạn dược, trang thiết bị quân sự, thuốc và dụng cụ y tế, lương thực, thực phẩm... thông qua các tuyến đường chiến lược. Đặc biệt, trong hơn hai năm chuẩn bị cho Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, toàn tuyến đường 559 đã vận chuyển, bàn giao cho các chiến trường gần 414.000 tấn vũ khí, hàng hóa các loại...; góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

---------------

Đại tá NGUYỄN MẠNH TUẤN, Phó tổng biên tập Tạp chí Quốc phòng toàn dân:

Trang sử hào hùng của Quân khu 3 trong kháng chiến chống thực dân Pháp

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), kẻ thù xác định: Đồng bằng Bắc Bộ là “cái then” của Đông Nam Á, là “chìa khóa” của chiến trường Đông Dương nên chúng tập trung ở đây lực lượng đông đảo (có lúc lên tới 50% lực lượng ở Đông Dương), gồm những đơn vị tinh nhuệ, thiện chiến, được trang bị hiện đại nhất và dựng lên hệ thống đồn, bốt kiên cố, cùng hệ thống ngụy quân, ngụy quyền tổ chức rất chặt chẽ, nhằm kiểm soát toàn bộ địa bàn chiến lược này. Thời kỳ đó, Liên khu 3 (nay là Quân khu 3) là vùng địch hậu, chiến trường trọng điểm, nóng bỏng, nơi diễn ra cuộc đọ sức gay go, giành giật quyết liệt giữa ta và địch.

 

Thực hiện Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (tháng 12-1946) và chỉ đạo của Trung ương Đảng, Liên khu 3 đã đẩy mạnh xây dựng LLVT làm nòng cốt tiến hành chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích. Phong trào gia nhập dân quân, du kích diễn ra ở khắp các địa phương. Cùng với đó, Liên khu đẩy mạnh xây dựng cơ sở chính trị rộng rãi của quần chúng và xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên khắp địa bàn. Các tổ chức: “Thanh niên cứu quốc”, “Phụ nữ cứu quốc”, “Nông dân cứu quốc”, “Phật tử cứu quốc”, “Công giáo cứu quốc”... ra đời, hoạt động rất hiệu quả. Phong trào “Đắp lũy, đào hào, xây làng kháng chiến, biến mỗi thôn xóm, mỗi làng xã thành một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ” nở rộ. Các khu căn cứ, khu du kích, làng xã chiến đấu, an toàn khu... được củng cố, phát triển mạnh ở cả vùng đồng bằng, rừng núi, tạo nên sức mạnh to lớn cho cuộc kháng chiến.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Liên khu ủy, cuộc kháng chiến của quân và dân trên địa bàn được tiến hành bằng sức mạnh của lực lượng tổng hợp, vận dụng đa dạng, linh hoạt các hình thức đấu tranh, cách đánh, thực hiện liên hoàn chiến, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị, kinh tế với đấu tranh vũ trang và binh địch vận, lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu; góp phần quan trọng cùng cả nước đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.

Những trang sử hào hùng, chiến công vang dội và sự hy sinh to lớn của quân dân Quân khu 3 trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã góp phần làm nên khúc tráng ca bất diệt của dân tộc Việt Nam; làm ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước, ý chí, khát vọng độc lập, tự do...

-----------

Đồng chí ĐINH VĂN TRUY,Chủ tịch Hội Cựu chiến binh TP Hải Phòng:

Nặng nghĩa tri ân, quan tâm chăm lo đền ơn đáp nghĩa

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược cũng như trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, hàng triệu người con trên địa bàn Quân khu 3 đã xung phong ra trận, trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu; cán bộ, chiến sĩ LLVT Quân khu 3 đã phối hợp với các lực lượng đánh hàng trăm nghìn trận lớn, nhỏ, góp phần quan trọng cùng cả nước giành những thắng lợi vĩ đại trong lịch sử chống ngoại xâm... Tuy nhiên, để góp phần giành được độc lập, tự do và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, hàng chục vạn người con của các tỉnh Quân khu 3 đã anh dũng hy sinh hoặc để lại một phần xương máu trên chiến trường. Để xứng đáng với những đồng đội đã hy sinh máu xương cho Tổ quốc, các cựu chiến binh và cán bộ, chiến sĩ LLVT Quân khu 3 không ngừng phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, ra sức cống hiến cho quê hương, đất nước, đồng thời luôn cố gắng tổ chức tốt các hoạt động tri ân.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ là những người có công với nước, cần được giúp đỡ để họ bớt khó khăn, tiếp tục cống hiến cho xã hội. Lời dạy ấy trở thành kim chỉ nam cho hoạt động đền ơn đáp nghĩa của LLVT Quân khu 3 và các địa phương, nhất là các cấp hội cựu chiến binh trên địa bàn. Như ở TP Hải Phòng, công tác tri ân, chăm lo chính sách được cấp ủy, chính quyền, LLVT và toàn dân thực hiện thường xuyên, liên tục với nhiều hình thức phong phú, thiết thực.

Riêng Hội Cựu chiến binh thành phố, với phương châm "nặng nghĩa tri ân, chăm lo đền ơn đáp nghĩa", 5 năm qua đã quyên góp, trao tặng hơn 5.500 suất quà, trị giá hơn 2,65 tỷ đồng; phối hợp với các cơ quan, đơn vị tặng 42 xe lăn tới các đồng chí thương binh nặng, trao 90 xe đạp tặng con thương binh, bệnh binh... Đặc biệt, từ năm 2022 đến nay, Hội Cựu chiến binh TP Hải Phòng đã giúp xây, sửa 215 nhà cho hội viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Hưởng ứng phong trào thi đua chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát, Hội đã vận động cán bộ, hội viên, các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp giúp đỡ cựu chiến binh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn sửa chữa 86 nhà, xây mới 43 nhà; tặng 10 con bò giống...

Việc chăm lo thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa có ý nghĩa chính trị và mang tính nhân văn sâu sắc, góp phần giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng và củng cố "thế trận lòng dân" vững chắc.

*Mời  bạn đọc vào chuyên mục Quốc phòng an ninh xem các tin, bài liên quan.