QĐND - Cứ 5 năm một lần, lớp học viên Tiểu đoàn 2 khóa 1981-1984 Trường Sĩ quan Chính trị-Quân sự (nay là Trường Đại học Chính trị) tổ chức họp mặt. Đã nhiều năm rồi, tiểu đoàn chúng tôi luôn giữ được thông lệ tốt đẹp đó. Ngay cái tên gọi “Tiểu đoàn chùa Bổ” mà chúng tôi tự đặt cũng là sự đặc biệt so với các tiểu đoàn học viên khác.

Số là Tiểu đoàn 2 mới nhập học ở thành Bắc Ninh một thời gian thì được Ban giám hiệu điều động lên khu vực chùa Bổ (xã Trung Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) để vừa học tập vừa xây dựng khu vực huấn luyện quân sự cho nhà trường. Hồi đó, học viên của Trường Sĩ quan Chính trị-Quân sự phải là đảng viên. Học viên của tiểu đoàn, người ít nhất cũng vài ba năm quân ngũ, có anh 7, 8 năm. Vì thế, hầu hết học viên đều trải qua chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu. Về trường học tập, dù có căng thẳng, kỷ luật nghiêm nhưng ai cũng thấy phấn khởi, bởi không gian phố phường; chủ nhật còn có thời gian đến thăm các em ở Trường Trung cấp Vật tư, Trung cấp Ngân hàng. Vì thế khi nhận lệnh di chuyển vị trí đóng quân ai cũng tỏ ra tiếc nuối, mặc cho Hiệu phó Thái Cán và cán bộ tiểu đoàn ra sức động viên. Lên đóng quân ở khu vực chùa Bổ, chúng tôi vừa học tập theo chương trình, vừa phải tự đóng gạch để xây dựng doanh trại trong cái rét tê tái và cái đói đến lả người. Và cái tên "Trường Sĩ quan Chính trị “gạch” quân sự" cũng xuất hiện từ đó. Không những thế, trong khóa học đó có rất nhiều sự kiện xảy ra liên quan đến đời sống quân đội, đến tình cảm, suy nghĩ của những học viên sĩ quan như chúng tôi. Đó là năm 1982, Quốc hội ban hành Luật Sĩ quan. Cũng trong năm đó, Bộ Chính trị có Nghị quyết 07 thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội… Những thay đổi dồn dập về cơ chế, chính sách đã tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ của chúng tôi, những đảng viên trẻ được đi đào tạo để về đơn vị làm “thủ trưởng về chính trị” như cơ chế cũ. Nhưng trong khó khăn, nguồn động viên của chúng tôi là hành động của lớp người đi trước. Tôi nhớ, có lần Hiệu phó Văn Cương xuống Tiểu đoàn 2 nói chuyện “Bảy vấn đề triết học toàn cầu”. Thấy ông tháng trước đang đeo 4 sao, nay chỉ có 3 sao vì theo Luật Sĩ quan 1982, quân đội không có cấp bậc thượng tá, vì vậy, cấp bậc đại tá chỉ có 3 sao. Nhìn thấy quân hàm thủ trưởng, có học viên nói vui: “Thế là thủ trưởng mất một sao rồi!”. Đại tá Văn Cương cười hiền: “Lo gì, mình là người của Nhà nước!”. Câu nói của ông theo chúng tôi suốt khóa học, vượt qua những biến động của cơ chế, những khó khăn về vật chất, những gian khổ về học tập để ra trường trở thành cán bộ chính trị trải đều hầu khắp các đơn vị trong toàn quân.

 

Cựu cán bộ, học viên, nhân viên Tiểu đoàn 2 (khóa 1981-1984) chụp ảnh lưu niệm với Ban giám hiệu Trường Sĩ quan Chính trị-Quân sự tháng 4-2009. Ảnh: H S

Tháng 4 năm nay, Tiểu đoàn 2 chúng tôi sẽ tổ chức kỷ niệm 30 năm ngày ra trường. Tất nhiên sẽ không thể đầy đủ, bởi người bận việc, người ở xa, người do hoàn cảnh gia đình không đến được. Và còn có đồng đội vĩnh viễn không về sum họp. Đó là những cán bộ chính trị hy sinh ở nước bạn Cam-pu-chia, ở biên giới phía Bắc... 30 năm, học viên của nhà trường bây giờ khác xa so với thời chúng tôi. Họ trẻ trung hơn, được đào tạo cơ bản hơn, được tiếp thu cái mới nhiều hơn, đời sống được đảm bảo tốt gấp nhiều lần… Nhưng với chúng tôi, những học viên Trường Sĩ quan Chính trị-Quân sự thời ấy vẫn khôn nguôi nhớ về mái trường thân yêu của mình. Nhớ anh Huấn, anh Tình, anh Đán, anh Minh... cán bộ khung nay đã nghỉ hưu, nhớ các em phục vụ nay đã lên chức bà nội, bà ngoại. Nhớ những buổi tập chiến thuật lỉnh kỉnh súng ống, bàn đạc chạy lên chạy xuống vùng đồi núi Trung Sơn mệt đến bã người và nhớ những đêm đi địa hình trong giá rét căm căm. Nhớ những bữa cơm độn sắn, khoai, những ngày vào làng Hạ Lát làm công tác dân vận được bà con cho ăn khoai sọ - “đặc sản” của quê hương quan họ. Nhớ những đêm chong đèn dầu thức khuya để ôn tập chuẩn bị cho môn thi. Nhớ những bộ quân phục “bùng nhùng”, bữa cơm cải thiện chỉ rau muống và gói mì ăn liền… Nhớ lại, đôi lúc tôi giật mình, không hiểu tại sao mình và đồng đội vượt qua được những ngày gian khó đó để phục vụ quân đội cho đến ngày hôm nay. Phải chăng đó là kỷ luật của Đảng, kỷ luật của quân đội, hay niềm tự hào, lòng tự trọng của một đảng viên, một cán bộ chính trị và đó còn là tình đồng chí, đồng đội đã giúp mình vượt lên? Có lẽ là tất cả.

HỒNG SƠN