QĐND Online - Cựu chiến binh Mai Văn Đề hiện cư trú tại số nhà 169 thôn Đình Thôn (Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội). Ông nguyên là chiến sĩ Trung đội 2 (Đại đội 5, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 3, Sư đoàn 9). Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ông hoạt động ở vùng Chiến khu D, nơi được mệnh danh là “Tam giác sắt”. Trong câu chuyện với chúng tôi, ký ức trận đánh tại chốt Rớt, huyện Chơn Thành, tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương) là kỷ niệm không thể phai mờ…
 |
CCB Mai Văn Đề (đứng giữa) cùng đồng đội trong một chuyến về Bình Dương thăm lại chiến trường xưa.
|
Ông kể, theo quy định trong Hiệp định Pa-ri, tất cả các đơn vị quân sự của cả 2 bên phải ở nguyên vị trí. Lúc đó, Đại đội 5 của ông chốt ở xóm Rớt, cạnh Quốc lộ 13 (huyện Chơn Thành, tỉnh Thủ Dầu Một). Đây là vị trí quan trọng, cửa ngõ của vùng giải phóng Đông Nam Bộ. Đại đội 5 nằm ở giữa hai gọng kìm của địch: Gọng kìm thứ nhất cách ta 1km, bên kia cầu Rớt, thuộc huyện Chơn Thành (tỉnh Bình Phước); gọng thứ 2 cách 8km, ở Bàu Bàng (huyện Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một). Tuy đã có lệnh ngừng bắn, nhưng ngụy quyền Sài Gòn tráo trở, luôn gây hấn, hòng chiếm lại vùng ta đã giải phóng.
Tối ngày 7-6-1973, Trung úy Lê Trung Phồn, Đại đội trưởng (quê ở Thanh Hóa) tổ chức giao ban và thông báo, rất có thể trong thời gian gần địch sẽ tập kích vào trận địa. Đại đội trưởng yêu cầu cả đơn vị nhanh chóng làm công tác chuẩn bị công sự, trận địa, vũ khí, sẵn sàng đánh trả các đợt tiến công của địch. Chúng tôi đoán địch sẽ tấn công từ Chơn Thành vào nên bố trí công sự trận địa nơi đây chắc chắn hơn. 8h sáng ngày 8-6-1973, trong lúc làm nhiệm vụ quan sát trên hướng được phân công, ông thấy một quả lựu đạn khói rơi vào giữa trận địa. Sau tiếng nổ “bục”, cột khói trắng phụt lên, Đại đội trưởng lệnh rút lực lượng vào vị trí ẩn nấp, sẵn sàng cơ động chiến đấu. Ông căng mắt hướng về phía đảm nhiệm quan sát, nhưng không thấy bất cứ động tĩnh nào từ phía địch. 15 phút sau, hàng loạt tiếng nổ lớn của pháo 122mm, 105mm, cối 81 rót như mưa vào trận địa. Khoảng 30 phút sau, hai chiếc máy bay AD6 kéo đến trút bom. Khi chúng vừa kéo đi, lập tức hàng loạt đạn pháo 175mm từ hướng căn cứ Đồng Dù bắn vào trận địa. Mặt đất vữa ra vì bom đạn cày xới.
Tiếng đạn pháo 175mm dứt tới lượt hai chiếc xe tăng ở chốt bên kia cầu Rớt bắn sang. Tuy nhiên, loạt đạn xe tăng chỉ bắn trùm qua trận địa. Thấy có dấu hiệu lạ, đồng chí Mạnh hô to: “Bộ binh địch chuẩn bị tấn công, Trung đội 2 sẵn sàng chiến đấu”. Ông lao ra khỏi vị trí ẩn nấp. Vừa lúc đó, phía sau đội hình trung đội, tiếng đạn trung liên nổ chói tai lẫn với tiếng hô rất đanh: “Địch tập hậu” của đồng chí Lý Bá Phúc (chiến sĩ sử dụng súng trung liên quê ở Hòa Bình) khiến mọi người bất ngờ. Hỏa lực của Trung đội nhanh chóng hướng tập trung về phía địch tấn công. Ông cùng đồng đội đọ súng quyết liệt với địch. Trong lúc tập trung tư tưởng cao độ đối phó với địch, bàn tay phải của ông bị một viên đạn tiểu liên của địch xuyên qua, máu chảy thành dòng. Nhưng ông đã vượt qua cảm giác đau đớn, tiếp tục ngắm về hướng tiến công của địch.
Sau khoảng 20 phút chiến đấu, mặc dù kiên quyết ngăn chặn, song địch vẫn tiến sâu vào trận địa ta khoảng 30m, đồng chí Nguyễn Văn Quấn (quê ở Quảng Bình) bắn liên tục 3 quả B40 vào đội hình của địch. Tiếng nổ quả B40 thứ 3 dứt, không thấy tên địch nào xông lên. Tiếng súng tạm im một lúc thì bất thần một trận mưa pháo thứ 2 tiếp tục trùm lên trận địa. Trận này dữ dội hơn trận trước. Dưới bão đạn của địch, đồng chí Phồn trực tiếp chỉ huy Trung đội 3, lợi dụng giao thông hào vòng vượt bám sát thắt lưng địch để đánh. Trung đội 2 ngừng nổ súng, cơ động tiếp cận mục tiêu và kiên quyết ngăn chặn không cho địch phát triển tiến công. Hai trung đội kết hợp với nhau, bên đánh vào sườn, bên chọc thẳng vào giữa đội hình khiến địch bị rối loạn và vỡ trận. Một thời gian ngắn sau, toàn bộ lực lượng địch đã bị đẩy lùi ra khỏi trận địa. Mũi đột kích bất ngờ đánh vào phía sau trận địa của đã bị Đại đội 5 bẻ gẫy. Kết thúc trận đánh hôm đó, Đại đội 5 đã tiêu diệt khoảng 54 tên địch. Chốt Rớt vẫn vững vàng.
Ngày hôm sau địch vẫn tiếp tục sử dụng pháo tấn công vào chốt Rớt, nhưng không dám sử dụng bộ binh đột kích. Biết không thể làm suy yếu được sức mạnh của chốt, ngày 10-6, địch cầu hòa. Sau trận đánh đó, Đại đội 5 của chúng tôi được tặng Huân chương giải phóng; đồng chí Mạnh, đồng chí Phúc được tặng tặng Huân chương giải phóng, tôi được Sư đoàn tặng Bằng khen.
Kết thúc câu chuyện với chúng tôi, ông nói rằng: Trong chiến đấu, mỗi chiến sĩ phải có tâm lý tốt, luôn sẵn sàng đối phó với mọi tình huống và thủ đoạn thâm độc của địch; hành động phải dũng cảm, nổ súng phải kiên quyết; dù trong tình huống nào cũng phải bình tĩnh, khôn khéo và xử lý thật linh hoạt. Có như vậy mới chiến thắng được kẻ thù. Có lẽ, những gì mà CCB Mai Văn Đề đúc rút trong suốt những năm tháng chiến đấu trên chiến trường “Tam giác sát”, nhất là trận đánh tại chốt Rớt sẽ mãi là những kỷ niệm đẹp.
PHẠM VĂN TUẤN (ghi theo lời kể của CCB Mai Văn Đề)