QĐND - Suốt những năm tháng chiến tranh chống Mỹ, nhiều nhà máy đóng tàu ở Hải Phòng nhận một công việc thầm lặng, cho đến nay ít người biết đến, là đóng những con tàu vỏ sắt phục vụ vận chuyển vũ khí và người vào Nam. Rà khắp những trang sách lịch sử của các nhà máy, thông tin về Tàu không số chỉ có vài dòng ngắn gọn. Ngay cả với các kỹ sư, công nhân trực tiếp tham gia đóng tàu, về sau họ mới biết mục đích công việc của mình là gì. Mái tóc đã điểm bạc, nhiều người nay đã không còn nữa, nhưng trong ký ức của họ luôn còn mãi niềm tự hào những ngày đóng Tàu không số.
 |
Đóng mới tàu trọng tải lớn tại Tổng công ty Bạch Đằng, một trong những nơi ra đời của Tàu không số vỏ sắt
|
Từ tàu vỏ sắt 100 tấn đầu tiên
Nhà máy đóng tàu Tam Bạc nằm khá khiêm tốn trên một con phố nhỏ ở Hải Phòng. Ngược dòng lịch sử về những năm 60 của thế kỷ trước, đây là một trong những xưởng cơ khí có quy mô lớn nhất miền Bắc thời điểm đó. Với tên gọi ban đầu là Xưởng Đóng tàu 3, loạt 6 chiếc Tàu không số vỏ sắt đầu tiên mang tên tàu 100 tấn được ra đời tại đây. Trong cuốn sách lịch sử Nhà máy đóng tàu Tam Bạc còn ghi một vài dòng về loạt tàu này: “Ngày 17-3-1963, chiếc tàu vỏ sắt đầu tiên của Đoàn tàu không số chở 44 tấn hàng, dài 30m; rộng 5,8m; chiều cao mạn 2,9m đã rời Xưởng Đóng tàu 3, xuất phát từ Đồ Sơn vào Trà Vinh… Sau con tàu đầu tiên, các tàu số 2, 3, 4, 5, 6 tiếp tục ra đời từ dòng sông Tam Bạc”.
Tham gia làm việc tại nhà máy từ những ngày đầu tiên thành lập, trực tiếp đóng mới loạt 6 tàu 100 tấn, trong ký ức của ông Trương Văn Trọng không khí lao động khẩn trương, hăng say của công nhân nhà máy thời kỳ đó như vẫn còn nguyên. Ông còn nhớ rõ đó là vào đầu năm 1960, nhà máy nhận nhiệm vụ đóng tàu vận tải biển. Ông kể: “Chúng tôi đóng theo thiết kế từ trên đưa xuống, không được biết mục đích để làm gì, chiếc đầu tiên mất 4 đến 5 tháng mới hoàn thành, cuối năm 1960 chạy thử và đến đầu năm 1961 bàn giao. Nhà máy lúc đó có hơn 400 người, hầu như phải huy động tất cả lực lượng tham gia đóng loạt tàu này”. Cũng theo ông Trương Văn Trọng, những chiếc tàu này có rất nhiều điểm đặc biệt, máy tàu trang bị công suất lớn, đầu, mũi tàu và hai bên mạn đều bố trí vũ khí, tàu đủ chỗ cho 10 thuyền viên, riêng buồng thuyền trưởng được lắp nhiều thiết bị hiện đại vào thời điểm đó. “Sau tàu số 1, chúng tôi liên tục cho ra đời những tàu tiếp theo, đóng xen kẽ, khi đã quen việc, có lúc một tháng cho chạy thử một tàu”, ông Trương Văn Trọng nhớ lại. Từ loạt tàu này, Nhà máy đóng tàu Tam Bạc sau đó còn đóng mới nhiều dòng sản phẩm khác phục vụ Quân đội những năm tháng chiến tranh.
Đến “thuyền máy” giả dạng tàu cá
Khi công tác vận tải trên con đường chiến lược trên biển ngày càng được tăng cường để phục vụ chiến trường miền Nam, số lượng tàu vỏ sắt được đóng cũng nhiều hơn, chủng loại đa dạng hơn. Có thể kể đến loạt tàu 70 tấn được đóng tại Nhà máy đóng tàu Sông Cấm với số lượng lên đến hơn 90 chiếc. Theo ông Nguyễn Trọng Nguyên, nguyên Phó quản đốc phân xưởng nhà máy, tàu được thiết kế đặc biệt, khoang hàng vỏ kép, 2 đáy, trọng tải 70 tấn nhưng được lắp máy tương đương 400 tấn, khung sườn rất chắc chắn. Dây chuyền đóng tàu vận hành liên tục, cứ 3 tháng cho ra một loạt sản phẩm.
Trong số rất nhiều Tàu không số vỏ sắt được đóng mới, có một sản phẩm đặc biệt về cả hình dáng và công năng đó là loạt thuyền biển 50 tấn, ký hiệu TM2, được đóng tại Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng (nay là Tổng công ty Bạch Đằng) trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến 1967. Là một trong những người gắn bó với nhà máy suốt những năm tháng chiến tranh phá hoại, ông Phạm Văn Đính còn lưu giữ khá nhiều tư liệu về loạt tàu này. “Lúc đó, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm sản xuất tàu vận tải biển, vừa làm vừa phải nghiên cứu, điều chỉnh. Yêu cầu của tàu TM2 là vừa có khả năng cơ động cao, vừa có thể giả trang thành tàu đánh cá trà trộn để che mắt địch”, ông Phạm Văn Đính cho biết. Ban đầu, tàu được sản xuất giống như tàu đánh cá hai buồm, nhưng vì tàu chạy với tốc độ lớn, cột buồm cao dễ bị lật nên sau cải tiến hạ thấp cột buồm, thêm bánh lái để chống lật. Càng về sau, tàu càng phải thay đổi nhiều hình dạng để che mắt địch. Giai đoạn này cũng là khoảng thời gian nhà máy bị đánh phá ác liệt, phải sơ tán đi nhiều nơi. Có lúc công trường được dựng ngay trên hè phố hay mượn sân của quân y viện để đóng tàu. Công nhân đóng tàu không chỉ sản xuất mà còn “chia lửa” với chiến trường. Nhưng dưới làn bom đạn, những con tàu đóng mới vẫn không ngừng được xuất xưởng. Trong quá trình hình thành và phát triển, ngành đóng tàu Việt Nam tự hào góp một phần không nhỏ làm nên Đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại.
Bài và ảnh: Mạnh Hưng