QĐND - Đông Hồ một làng quê bình yên, có cái tên nghe vừa cổ kính vừa gợi tưởng. Làng Đông Hồ xưa thuộc Hồng Hưng, huyện Thụy Anh, nay là xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Mấy ai ngờ một ngôi làng nhỏ mà có tới 61 liệt sĩ hy sinh trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi liệt sĩ một câu chuyện, một kỳ tích, nhưng tất cả cùng chung một hành động quả cảm trước khi ngã xuống. Hành động của họ đủ nói lên bản chất anh hùng của người Đông Hồ.
Chúng tôi có dịp tới thắp hương liệt sĩ Bùi Duy Đương, người chiến sĩ quả cảm của đội Thái Hùng làng Đông Hồ. Hy sinh từ năm 1951, nhưng câu chuyện về ông vẫn đọng lại trong ký ức của bao người. Những ký ức đẹp về cuộc đời bình dị, về đức hy sinh và tấm lòng vì nước vì dân mà ông đã dâng hiến cả cuộc đời của mình. Qua câu chuyện kể của ông Vũ Văn Thám, bà Bùi Thị Bính, bà Bùi Thị Tho, cụ Bùi Duy Tấu… những người được chứng kiến những ngày cuối cùng của liệt sĩ Bùi Duy Đương, chúng tôi càng hiểu thêm phẩm cách và ý chí kiên cường của ông cũng là ý chí và lòng yêu nước của người dân Đông Hồ trong hai cuộc kháng chiến. Họ không chỉ kiên cường trước quân thù mà chí khí anh hùng nằm trong gan ruột ở những con người nơi đây mới thật đáng khâm phục.
*
* *
Vào những năm 1950-1951, Đông Hồ là một làng tề. Bọn địch đã lập ra bốt Bảo An tại nhà thờ Đông Hồ và thường xuyên tổ chức các cuộc càn quét truy lùng cán bộ Việt Minh, trấn áp phong trào đấu tranh cách mạng của ta. Chúng đã thực hiện nhiều cuộc bắt bớ, tra tấn dã man những người chúng nghi là hoạt động cách mạng, hoạt động Việt Minh.
Nhằm ngăn chặn tội ác của giặc, Thụy Phong đã thành lập đội Thái Hùng, chọn những cán bộ và du kích mưu trí, dũng cảm vào đội Thái Hùng để làm nhiệm vụ chống lại những tên tay sai phản động có nhiều nợ máu đối với nhân dân.
 |
Thiếu tướng Bùi Quảng Bạ bên mộ cha - Liệt sĩ Bùi Duy Đương. |
Ông Bùi Duy Đương làng Đông Hồ là một trong những chiến sĩ quả cảm trong đội Thái Hùng. Cùng hoạt động với ông, làng Đông Hồ còn có các ông Bùi Thọ Luyện (liệt sĩ), Bùi Duy Ế, Phạm Đăng Thoát, Vũ Đình Nam... Các ông là những tấm gương cảm tử, sẵn sàng dấn thân vào nơi hiểm nguy mà không tiếc thân mình. Ông Bùi Duy Đương đã cùng anh em trong đội Thái Hùng thường hoạt động bí mật, mai phục ở những nơi bọn Việt gian hay lui tới, qua lại. Có khi cả ngày, cả đêm nằm trong các lùm cây, bụi rậm, ven đường, ven nhà thờ. Có khi ém mình mai phục ngay sát bốt Đông Hồ, khi bọn ác ôn đi qua, các ông báo cho cơ sở của ta biết để tránh chúng. Có tên Việt gian đi chợ, các ông rủ vào nhà mua hàng rồi tóm gọn. Một số anh em trong đội Thái Hùng còn giả là người đi làm thuê, đi gặt lúa cho gia đình tên ác ôn để bắt hắn… Nhờ lòng dũng cảm và mưu trí, đội Thái Hùng đã phá được bốt Thụy Thanh cách làng Đông Hồ chừng 3km và “giải nghệ” được nhiều tên tay sai gian ác.
Thực hiện âm mưu chống phá cách mạng và tiêu diệt lực lượng đội Thái Hùng, bọn địch tăng cường các cuộc càn quét, truy lùng ráo riết. Ngày 17-4-1951 trong ký ức của nhiều người dân Đông Hồ xưa là một ngày bi thương đáng nhớ. Bọn địch kéo quân từ bốt Bất Nạo Phủ Dực do tên đồn trưởng Nguyễn Văn Ngôn chỉ huy càn vào làng Đông Hồ. Khoảng 7 giờ, khi mọi nhà đang bình yên, bỗng tiếng súng đồng loạt nổ trên con đường làng. Bọn địch bao vây các ngả đường và bắt tất cả người dân từ cụ già đến em bé tập trung ra đình làng Đông Hồ. Chúng dùng súng đe dọa và cho bọn chỉ điểm đi nhận mặt từng người mà chúng nghi có liên quan đến Việt Minh. Trong số hàng trăm người dân, chúng đã bắt hai ông Bùi Duy Đương và Bùi Thọ Ruyện đưa về bốt Bất Nạo tra tấn. Trong suốt hai ngày bọn địch trong bốt đã đánh đập, tra khảo hai ông rất dã man. Chúng dùng gậy tre và dùi cui đánh tới tấp, nhưng hai ông vẫn một mực không khai báo. Chúng dùng điện tra tấn, rồi dìm xuống nước đánh đập, vẫn bất lực trước hai chiến sĩ Thái Hùng làng Đông Hồ.
Biết mình thể nào cũng bị địch giết, ông Bùi Duy Đương đã nghĩ cách lừa bọn địch về làng để tìm cơ hội tiêu diệt chúng. Ông nhớ tới cây mã tấu cất dưới mương nước ở đầu làng Đông Hồ. Ông nói với tên đồn trưởng, đưa các ông về làng, ông sẽ chỉ nơi cất giấu vũ khí của đội Thái Hùng. Bọn địch tin, đã làm theo ông, chúng áp giải hai ông về làng. Ông Bùi Duy Đương lội xuống mương nước mò cây mã tấu. Hai tên địch lăm lăm khẩu súng kèm ông. Trên bờ mương hàng chục tên địch đứng theo dõi, chờ đợi. Khi mò được cây mã tấu, ông Đương không giơ lên mà giả vờ như chưa tìm thấy. Ông nắm chặt cây mã tấu di chuyển dưới nước tiến sát lại phía tên đầu sỏ đứng cạnh bờ mương. Bất ngờ ông vung cây mã tấu lên chém tên địch. Nhưng không may cho ông, ở thế bất lợi, đứng dưới nước chém kẻ trên bờ, chân đạp bùn lún sâu, lại đuối sức, nên ông chém hụt, tên địch đã tránh được rồi hô hoán xả súng vào người ông. Máu ra nhiều, ông Đương bò lên tới ruộng lúa thì tắt thở. Còn ông Bùi Thọ Ruyện chúng lôi ra bắn ở sau chợ Đông Hồ.
Sau khi giết hai người, bọn địch kéo đến vây nhà ông Đương và trả thù một cách hèn hạ. Bà Bùi Thị Tho người làng Đông Hồ kể:
- Hôm ấy tôi sang nhà bà Đương chơi, đang ngồi nói chuyện với bà thì một tốp người hằm hằm bước vào, bắt bà Đương và 3 người con ra sân. Họ sấn vào nhà lục soát, đập phá rồi châm lửa đốt nhà. Bốn gian nhà mái rạ bốc cháy rừng rực.
Ông Vũ Văn Thám nói tiếp:
- Lúc chúng tôi tới thì nhà ông Đương đã bị cháy trụi, chỉ còn vại thóc vỡ tung tóe, khói vẫn âm ỉ.
Cụ Bùi Duy Tấu cho biết:
- Đêm hôm đó tôi và ông Nhỡ cùng ông Bùi Duy Tiêm (anh trai ông Đương) bí mật tổ chức mai táng cho ông Đương. Khi thay quần áo cho ông, chúng tôi phát hiện có hai viên đạn của địch bắn trúng ngực và bụng ông. Chỉ thương thay, sự hy sinh của ông thật anh dũng mà lúc tiễn ông về cõi âm lại âm thầm, lặng lẽ vì hôm ấy có bọn địch mai phục. Chúng âm mưu qua việc đưa tang ông Đương hòng bắt thêm các chiến sĩ trong đội Thái Hùng.
Kể từ ngày ông Bùi Duy Đương ra đi, 49 năm sau ông mới được công nhận là liệt sĩ. Sự tôn vinh tuy muộn càng chứng tỏ hành động của ông trước kẻ thù là hành động của người lính quả cảm. Sự hy sinh của ông Bùi Duy Đương là cao cả. Nhưng sự nén chịu đau thương và lòng can đảm vượt qua khó khăn của vợ ông -bà Vũ Thị Nhót còn quý trọng hơn. Lúc chồng hy sinh, một nách ba con, lại bụng mang dạ chửa. Hoàn cảnh gia đình nghèo túng, nhà tan cửa nát. Gánh nặng cuộc đời dồn cả lên đôi vai, nhưng bà vẫn không gục ngã trước số phận. Tần tảo làm lụng nuôi con, thờ chồng, dạy dỗ các con nên người, bà thật xứng danh một phụ nữ Việt Nam thủy chung, mẫu mực.
Ảnh hưởng tư chất từ cha mẹ và sự nghiệt ngã của hoàn cảnh, các con của ông bà Đương đã không ngừng nỗ lực học tập, rèn luyện, trở thành người hữu ích xứng đáng với công lao dưỡng dục của mẹ cha.
Người con gái cả là Bùi Thị Sim, sau khi bố hy sinh, đã tình nguyện tham gia hoạt động trong đội địch vận. Nhiều lần Sim dũng cảm, dấn thân vào bốt Kha Lý làm công tác tuyên truyền. Một lần bị lộ, địch bắt tra tấn đánh đập dã man bà Sim vẫn một mực không khai. Bọn chúng chôn sống bà, chỉ để cái đầu thò lên mặt đất. Chúng đang chuẩn bị dùng trâu kéo bừa qua đầu bà thì được một bà cụ ở làng bên xin bảo lãnh, đã cứu thoát.
Người con thứ 3 là Bùi Thị Xuân tình nguyện đi thanh niên xung phong những năm chống Mỹ, cứu nước và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nơi tuyến lửa. Đặc biệt, người con trai út của ông bà Đương là Bùi Quảng Bạ. Khi bố hy sinh anh còn đang nằm trong bụng mẹ. Ra đời, lớn lên trong vòng tay yêu thương cơ cực của người mẹ, Bùi Quảng Bạ đã sớm ý thức được phẩm chất anh dũng của cha, nỗi đau cùng nghị lực phi thường của người mẹ. Từ cái nền tảng truyền thống gia đình, Bùi Quảng Bạ đã dồn hết tâm thế, nghị lực cho việc học tập, rèn luyện và công tác. Anh là một trong những người con thành đạt của dòng họ Bùi, của quê hương tỉnh Thái Bình. Trở thành một vị tướng, một nhà khoa học: Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Quảng Bạ. Với cương vị là Phó Tổng cục trưởng - Viện trưởng Viện chiến lược và khoa học Công an, Bộ Công an.
Hơn 60 năm đã trôi qua, nhưng câu chuyện cảm tử của liệt sĩ Bùi Duy Đương và sự nối tiếp của những người con liệt sĩ vẫn để lại trong lòng người dân Đông Hồ, người dân Thái Bình những ấn tượng sâu sắc...
Ghi chép của nhà văn Minh Chuyên