QĐND Online – Quê cùng ở thôn Chí Trung, xã Tân Quang (Văn Lâm, Hưng Yên), cùng lên đường tòng quân đánh giặc, cùng bị tù đày ở nhà tù Phú Quốc, thế nên chuyện những ngày đấu tranh nơi tù ngục luôn được các ông hoài niệm, khi tuổi đã xế chiều. Đó cũng là những câu chuyện luôn được các ông kể với cháu con, để chúng hiểu và thêm tự hào về truyền thống đánh giặc, giữ nước của ông cha. Một ngày tháng 7, khi kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ đã cận kề, chúng tôi có may mắn được gặp hai cựu tù Phú Quốc ấy, đó là các ông Nguyễn Văn Bóng, Nguyễn Văn Bỉnh. Những “thước phim” về một thời gian khổ nhưng anh dũng, tự hào lại được quay chậm trong ký ức của hai cựu chiến binh…
Kỳ 1: Đòn thù và khát vọng sống
Đường đến nhà tù Phú Quốc
Sinh năm 1950, năm 1967 chàng trai Nguyễn Văn Bóng xung phong lên đường nhập ngũ. Sau một thời gian huấn luyện tại Hòa Bình, tháng 11-1967, ông hành quân vào Nam. Toàn đơn vị tập kết tại sông Bến Hải, nhận lệnh đánh bốt Cam Lộ (Quảng trị), trong đợt tổng tiến công mùa Xuân 1968.
Đêm ngày 2-2-1968, đơn vị của ông Bóng nổ súng tấn công bốt Cam Lộ, trận chiến diễn ra ác liệt. Trong trận đánh này, ông bị thương nặng do đạn M79. Trời tảng sáng, ông tỉnh lại trong tình trạng bị thương nặng, một mắt không nhìn thấy gì và bị địch bắt. Chúng giải ông về trại giam ở Quảng Trị, rồi chuyển tiếp tới trại giam ở Đà Nẵng. Không khai thác được gì từ tù nhân “cứng đầu” này, nên ngày 27-5-1968, địch chuyển ông Bóng tới nhà tù Phú Quốc.
Cũng khá giống với hoàn cảnh của ông Bóng, ông Nguyễn Văn Bỉnh bị địch bắt trong một trận đánh ác liệt.
Ông Bỉnh sinh năm 1940. Tháng 2 năm 1960, ông nhập ngũ vào Trung đoàn 36, Sư đoàn 308. Xuất ngũ năm 1962, đến tháng 4-1965 ông tái ngũ và cuối năm 1966 hành quân vào Nam chiến đấu. Ngày 12-12-1968, ông tham gia trận chống càn tại thung lũng Vĩnh Hội, thuộc huyện Phù Cát (Bình Định). Địch sử dụng hơi cay tấn công vào hang đá, nơi ông và đồng đội đang cố thủ, buộc ông và mọi người dùng khăn mặt thấm nước bịt mũi, miệng, rút khỏi hang. Trong quá trình chiến đấu, ông đã tiêu diệt một tên địch, thu một súng M16, một mặt nạ phòng độc. Trời tối, địch tiếp tục tăng cường lực lượng nhằm tiêu diệt số bộ đội của ta đang cầm cự với chúng. Máy bay địch được sử dụng để đổ quân xuống thung lũng. “Mải lắng nghe máy bay địch nên tôi mất cảnh giác, để địch tiếp cận sườn bên phải của mình. Khi thấy tôi, chúng hô to “VC” và dồn quân đến vây bắt. Mặc dù chống trả quyết liệt, nhưng cuối cùng tôi bị rơi vào tay địch”.
Sau khi dẫn giải ông về giam cầm tại nhà giam của sư đoàn Mãnh Hổ, chúng tiếp tục đưa ông đến nhà tù Phú Tài (Bình Định). Đến năm 1969, ông Bỉnh bị địch đày ra nhà tù Phú Quốc. Đầu tiên ông ở trại A2, sau đó là A3.
 |
Chuyện đấu tranh ở nhà tù Phú Quốc vẫn được ông Bóng (người ngồi giữa), ông Bỉnh (người ngoài cùng bên phải) kể với cháu con.
|
Đòn thù
Ngay khi đặt chân tới nhà tù Phú Quốc, Nguyễn Văn Bóng phải “ăn” môt trận đòn thị uy bằng roi cá đuối, dùi cui; rồi nhận quần áo cũ nát và về trại giam. Ông được chúng xếp vào trại A4.
Buồng giam rộng chừng 40m2, chúng giam tới gần 100 người, khiến anh em tù phải dựa vào nhau mà ngủ. Nước uống thiếu, song địch lại bắt anh em tù ăn cá biển khô. Họa hoằn anh em mới được bữa cá tươi, nhưng là loại cá người dân địa phương bỏ đi, dùng làm phân bón. "Thùng đựng thức ăn cho anh em tù cũng chính là thùng đựng phân, nước tiểu của anh em", ông Bóng nhớ lại.
Nhằm vùi dập ý chí của các chiến sĩ cộng sản, bọn cai ngục đã không từ đòn tra tấn nào, và có những ngón đòn chỉ có ở thời Trung Cổ như: Dùng kìm bẻ răng, đóng đinh đầu ngón tay, dùng roi cá đuối đánh tuốt da… Dã man hơn, để nhấn chìm phong trào phản đối của anh em tù, địch sẵn sàng bắn đạn pháo, đạn cối vào trại giam, khiến nhiều tù nhân mất mạng. Ngoài ra, chúng liên tục luân chuyển, chia rẽ anh em tù để dễ bề hành hạ.
Về nhà tù Phú Quốc, ông Bỉnh cũng chịu đòn “dằn mặt” của kẻ thù. Ông phải “biểu diễn xiếc” khi lộn trên những tấm ghi sân bay dã chiến đã được địch lật trái.
Ông Bỉnh kể: “Khi đã lật trái, tấm ghi để lộ những cạnh xù xì. Vậy mà tù nhân mới đến phải lộn đủ 20 chiếc trên hàng ghi ấy. Nếu lộn khéo thì cũng đau ê ẩm, lộn không khéo thì chảy máu đầu, vai”.
Ông Bỉnh lại nhớ có lần chúng cắt cử ông và 2 tù nhân nữa lên rừng vận chuyển cây. Chỉ có 3 người, song chúng bắt các ông vác một cây rất lớn, thực chất là để hành hạ anh em tù nhân. Vác không nổi, chúng bắt các ông lăn xuống chân đồi, rồi tống vào phòng biệt giam.
Nhằm tạo sự căng thẳng tột độ cho tù nhân, nhiều đêm chúng tổ chức báo động điểm danh đến 4 lần. “Vừa về chỗ nằm, chúng lại gõ kẻng báo động, khiến cả đêm anh em không tài nào ngủ được. Cứ khi nào ở chiến trường quân ta đánh rát, chúng tại giảm “cường độ” hành hạ để lấy lòng anh em. Nhưng khi ta đánh ít, chúng lại ngạo nghễ ra sức khủng bố tù nhân”, ông Bỉnh cho hay…
Bài, ảnh: Hoàng Hà-Tuấn Sơn