Chiếc đèn đi-na-mô phục vụ trong phòng mổ của bác sĩ Trần Bảo. Ảnh tư liệu

Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, ngành Quân y non trẻ Việt Nam thiếu cán bộ chuyên môn trầm trọng, thiếu dụng cụ y tế, thiếu thuốc men, bông, băng gạc… nghĩa là thiếu đủ mọi phương tiện tối cần thiết để phục vụ thương binh, bệnh binh. Sinh viên năm thứ 4 Đại học Y khoa Hà Nội Trần Bảo đã dùng ánh sáng đèn đi-na-mô xe đạp phục vụ cho mổ xẻ đạt kết quả rất tốt. Đó là một sáng kiến tuyệt vời, từ “cái khó ló cái khôn” được áp dụng phổ biến ở các Đội điều trị và các Bệnh viện dã chiến trong toàn quốc qua 9 năm kháng chiến chống Pháp.

Tôi đang mải viết bài nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam thì nghe tiếng chuông điện thoại réo lên.

- A-lô, tôi nghe đây, ai đấy ạ?

- Bảo đen đây!

- Chào thủ trưởng. Đã lâu lắm em mới lại được nghe giọng nói của thủ trưởng đấy. Nghe dược sĩ Trọng Châu nói thủ trưởng mới đi thăm lại chiến trường xưa về, còn mệt hay sao mà giọng nói có vẻ khê khê thế?

- Mình 89 tuổi rồi, cậu bảo giọng còn trong trẻo làm sao được! À này, cậu có biết dùng ánh sáng đèn đi-na-mô xe đạp phục vụ cho mổ xẻ thời kháng chiến chống Pháp là do ai nghĩ ra đầu tiên không?

- Em đã cất công tìm hiểu rất nhiều người và nhiều đơn vị nhưng chưa có ai trả lời được cả.

- Bảo đen đấy!

- Trời ơi! Thế mà bây giờ thủ trưởng mới nói. Đó là một sáng kiến tuyệt vời đối với ngành y trong kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn gian khổ và thiếu thốn. Nếu Cục Quân y và Bộ Y tế biết được thì phải tri ân thủ trưởng nhiều lắm đấy.

- Sở dĩ bây giờ mới nói là vì vừa rồi Giáo sư Nguyễn Thúc Tùng cũng hỏi mình xem ở ngoài Bắc ai đã nghĩ ra cái sáng kiến đó? Để cho chắc chắn và khách quan hơn, mình hỏi lại Giáo sư là trong Nam các anh có sử dụng như vậy không? Sau khi nghe mình nói, anh Tùng rất hoan nghênh và đề nghị mình nên báo cáo Cục Quân y và Bộ Y tế biết. Uống nước nhớ nguồn mà.

Chuyện được bác sĩ Trần Bảo (Bảo đen) nguyên Viện trưởng đầu tiên Viện Quân y 108 (sau này là Vụ phó Vụ điều trị dự phòng Bộ Y tế) kể lại như sau:

“… Trước Toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, các bệnh viện nhà nước chưa có bác sĩ. Hầu hết là y sĩ Đông Dương (Mesdecine Indochinois). Lác đác, tỉnh nhỏ có bác sĩ, nhưng các vị này chỉ mở phòng mạch tư. Đại chiến thế giới thứ hai, Pháp đề bạt mấy y sĩ Đông Dương lên cấp bác sĩ (Docteur) là:

Y sĩ Đỗ Xuân Hợp (sau này là GS, Thiếu tướng Giám đốc Học viện Quân y).

Y sĩ Vũ Đình Tụng (sau này là Bộ trưởng Bộ Thương binh-Xã hội).

Chỉ riêng Hà Nội mới có Đốc tờ ở 3 bệnh viện: Bạch Mai, Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức) và Bệnh viện Mắt. Mổ xẻ ở các tỉnh rất hạn chế. Chủ yếu là rạch áp-xe, cắt Phi-mô-dít (hẹp bao quy đầu), cưa gãy xương. Các ca mổ lớn vào sọ não, ổ bụng, lồng ngực… toàn miền Bắc phải tập trung về Bệnh viện Phủ Doãn. Có 4 bác sĩ chuyên mổ về đại phẫu các loại là: GS Tôn Thất Tùng (sau này là Thứ trưởng Bộ Y tế kiêm Giám đốc bệnh viện Hữu nghị Việt Đức), Bác sĩ Phạm Biểu Tâm (ở lại Hà Nội, không theo kháng chiến), Bác sĩ Nguyễn Thúc Tùng (sau là Chủ nhiệm Quân y Quân khu V, rồi Giáo sư, Phó viện trưởng Viện Quân y 108) theo kháng chiến vào miền Trung; miền Bắc chỉ còn có Bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ (sau này là Giáo sư, Hiệu trưởng Trường đại học Y khoa Hà Nội).

Vào những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), Bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ nhận lệnh thành lập bệnh viện ngoại khoa dã chiến đóng ở xã Xuất Cốc thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Cùng công tác có sinh viên Y khoa năm thứ tư Trần Bảo (sau này là Viện trưởng đầu tiên của Bệnh viện TƯ Quân đội 108, rồi chuyển ra ngoài làm Giám đốc Bệnh viện Xanh Pôn, rồi Giám đốc Sở Y tế Hà Nội, rồi Vụ phó Vụ điều trị Dự phòng Bộ Y tế) và Y tá Đào Thế Phượng (sau này là Đại tá, Viện trưởng Viện Quân y 110, rồi Trưởng phòng Điều trị Dự phòng Cục Quân y, về hưu ở xóm 100 cầu Mọc, huyện Từ Liêm, Hà Nội) công tác ở phòng mổ. Một đêm có thương binh bị thương ổ bụng và lồng ngực vào cấp cứu. Ánh sáng nhà mổ lúc đó duy nhất chỉ có chiếc đèn bão nên không thể rọi sâu vào trong ổ bụng và khoang lồng ngực, hơn nữa bệnh nhân được gây mê bằng ê-te dễ bắt lửa trong lúc mổ rất nguy hiểm, còn ánh sáng của đèn pin thì lại quá yếu khiến bác sĩ Cơ gặp rất nhiều khó khăn. Đã có đôi lần như vậy, một hôm ông gợi ý: Các cậu xem có cách nào khắc phục được không? Sau nhiều ngày đêm trăn trở, Trần Bảo bật ra sáng kiến thử dùng đèn đi-na-mô xe đạp xem sao? Được Bác sĩ Cơ đồng ý, Trần Bảo sốt sắng đi tìm mua một chiếc xe đạp có đèn về phối hợp cùng y tá Đào Thế Phượng bắt tay vào lắp ráp thực nghiệm ngay. Lúc đầu phải hai người thay phiên nhau quay “pê-đan” bánh xe, người phụ cầm đèn rọi vào ổ bụng hoặc lồng ngực theo yêu cầu của phẫu thuật viên. Về sau được cải tiến treo xe đạp ở ngoài phòng mổ (để đảm bảo vô trùng), một người ngồi xe đạp liên tục như một “cua-rơ” thực thụ vừa đỡ mỏi mà ánh sáng rọi vào “trường mổ”  không bị lập lòe, lại bớt được một người. Từ đó các Đội điều trị, các Bệnh viện dã chiến ở khắp ba miền Trung-Nam-Bắc và cả Miên, Lào đua nhau áp dụng. Đúng là một sáng kiến tuyệt vời của bác sĩ Trần Bảo nảy sinh ra trong gian khó đã đóng góp thiết thực cho Ngành Y tế cách mạng Việt Nam trong suốt 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp.

Bác sĩ  TẠ LƯU