QĐND - Viện Kỹ thuật Công binh đã nghiên cứu chế tạo thành công máy dò mìn kim loại DKL-03 đưa vào sử dụng phục vụ công tác rà phá bom mìn giải phóng đất đai, khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh. Máy dò được tất cả các loại mìn kim loại, chứa kim loại và các loại bom, đạn hoặc những vật thể kim loại nằm dưới đất, ở vùng nước nông.

Nhân viên kỹ thuật Đội rà phá bom mìn Bộ CHQS tỉnh Quảng Trị thực hành dò bom, mìn, vật nổ. Ảnh: Xuân Giang.

Máy dò mìn DKL thiết kế dựa theo nguyên lý máy dò bom mìn Vallon ML-1620C của nước ngoài, song được ứng dụng công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện sản xuất quốc phòng và trình độ sử dụng của bộ đội ta. Máy có kết cấu gồm ba bộ phận chính: Đầu dò, cần dò, hộp điện tử và được xếp gọn trong hộp đựng. Đầu dò có hình bầu dục, kín nước, không chịu ảnh hưởng về sự thay đổi nhiệt độ và độ ẩm môi trường, chống được rung xóc. Đầu dò phát xung điện từ tần số 1,52kHz và thu tín hiệu điện từ trường chuyển tới hộp điện tử để xử lý. Cần dò là ống nhôm tròn, có ba khúc, đường kính khác nhau, được thiết kế dạng ống lồng liên kết với nhau bằng đai ốc nối để thay đổi độ dài cần dò từ 780 đến 1.230mm cho phù hợp với các tư thế người vận hành. Hộp điện tử của máy có hai ngăn, một ngăn chứa các pa-nen mạch điện tử và loa báo tín hiệu; một ngăn chứa pin. Mặt ngoài hộp bố trí các núm chức năng, gồm: Núm công tắc nguồn, giắc cắm cáp tín hiệu, núm điều chỉnh độ nhạy, núm cân bằng.

Máy dò mìn DKL dò được mìn chống tăng như TM-57 ở độ sâu 800mm, mìn chống bộ binh PPM-2 sâu 10mm, mìn K58 sâu 180mm, bom bi quả ổi, sâu từ 200 đến 250mm. Khối lượng máy khi hoạt động là 3,4kg, khối lượng toàn bộ hộp khi vận chuyển 6kg; nguồn điện cung cấp 9V. Máy có khả năng làm việc trong điều kiện đất nhiễm quặng nặng, đá ong, đất nhiễm từ cũng như từ trường mạnh, khu vực có đường dây điện cao thế... nhờ có bộ cân bằng địa. Kết cấu của máy gọn nhẹ, tháo lắp dễ dàng, thao tác đơn giản.

Trọng Nguyễn