QĐND - Ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” (19-12-1946), cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô diễn ra quyết liệt. Quân và dân Thủ đô vừa chiến đấu, vừa tích cực xây dựng và phát triển lực lượng. Đến tháng 1-1947, các lực lượng chiến đấu ở Hà Nội lần lượt được tổ chức phù hợp. Để thống nhất chỉ huy, tăng cường sức mạnh chiến đấu, các đơn vị Vệ quốc đoàn, Công an xung phong và tự vệ thuộc Liên khu 1 được tổ chức thành một trung đoàn mang tên Trung đoàn Thủ đô. Trung đoàn Thủ đô ra đời đánh dấu bước phát triển mới về quy mô tổ chức của quân đội ta, góp phần tăng thêm sức mạnh chiến đấu của quân và dân Liên khu 1 lên bước mới.

Nét nổi bật của Trung đoàn Thủ đô trong cuộc chiến đấu giữa vòng vây của địch là vận dụng cách đánh của thế trận chiến tranh nhân dân trong thành phố, trong đó vận dụng sáng tạo, linh hoạt các hình thức tác chiến trong từng trận đánh, điển hình là tư tưởng tiến công trong tác chiến phòng ngự. Căn cứ vào kiến trúc cổ trên địa bàn Liên khu 1, Trung đoàn tổ chức hai loại trận địa phòng ngự.

Nhân dân Hà Nội chở Bộ đội Trung đoàn Thủ đô vượt qua sông Hồng rút quân an toàn. Ảnh tư liệu.

Loại hình bố trí trận địa thứ nhất là ta bố trí một vài tiểu đội, có nơi một trung đội ở những vị trí quan trọng trên nhà cao tầng, lợi dụng ưu thế tầm cao của các tòa nhà để phát huy hỏa lực tiêu hao sinh lực địch, đẩy lùi các đợt tiến công của chúng. Tiêu biểu là trận chiến đấu bảo vệ nhà Xô-va (Sauvages, trụ sở Công ty Vận tải đường biển, đường sông) cao hai tầng, nằm trên đường Trần Quang Khải. Dựa vào thế vững chãi của ngôi nhà, các chiến sĩ Tiểu đoàn 103 đã ngoan cường chiến đấu, đẩy lùi 3 đợt tiến công của một đại đội địch có xe tăng, xe bọc thép yểm trợ. Đến đợt tiến công thứ tư, với ưu thế quân đông, hỏa lực mạnh, địch lọt vào tầng dưới ngôi nhà. Bộ đội ta phải rút lên tầng gác bám trụ tiếp tục chiến đấu ngăn chặn địch. Nhằm giành lại vị trí bị đã mất, Trung đoàn sử dụng một trung đội cảm tử và một bộ phận lực lượng dự bị Tiểu đoàn 102, do Tiểu đoàn phó Vũ Lăng chỉ huy, theo đường hào kín từ ngõ Phất Lộc đánh sang nhà Xô-va. Bộ đội ta dùng thang gỗ trèo qua tường vào đánh địch ở tầng dưới, kết hợp với bộ phận trên gác đánh xuống. Bị đánh mạnh từ hai phía, địch hoảng sợ đối phó yếu ớt rồi tháo chạy. Chiến thắng Xô-va củng cố niềm tin cho bộ đội ta có khả năng tiêu diệt được nhiều địch và giam chân chúng nhiều ngày giữa lòng địch ở Hà Nội; khẳng định thế trận “trong đánh ngoài vây, trong ngoài cùng đánh” tiếp tục phát huy hiệu quả.

Loại hình bố trí trận địa thứ hai là dựa theo từng trục đường phố, bộ đội ta đặt các vật làm chướng ngại, tạo thành những chiến lũy để ngăn xe tăng, xe bọc thép, cơ giới, bộ binh địch; đồng thời tổ chức các hố bắn, tuyến bắn hai bên phố, triệt để lợi dụng những dãy nhà cao tầng làm vật che chắn để bất ngờ dùng các loại vũ khí đánh địch. Hình thức tác chiến phòng ngự theo tư tưởng chủ động, linh hoạt kết hợp chặt chẽ giữa ngăn chặn địch ở chính diện bằng hệ thống chướng ngại vật với bất ngờ tiến công địch từ hai bên dãy phố vào sườn quân địch đã mang lại hiệu quả. Trong đó tiêu biểu là trận đánh địch ở khu vực phố Hàng Thiếc (8-2-1947). Một trung đội thuộc Tiểu đoàn 102 bám trụ ngoan cường chiến đấu, giành giật với địch từng đoạn đường, căn nhà, góc phố và ụ đất. Dựa vào tầng hai của một căn nhà, đồng chí Trần Đan ném hàng chục quả lựu đạn xuống đội hình quân địch, bẻ gãy nhiều đợt xung phong của chúng, diệt nhiều tên. Địch liều lĩnh cho quân phun xăng, bắn đạn lửa đốt cháy một số ngôi nhà, bộ đội ta kiên cường bám trụ, giữ vững khu vực trận địa phố Hàng Thiếc, ghi thêm chiến công rạng rỡ trên đường phố Hà Nội.

Cùng với nhiệm vụ thường xuyên chiến đấu giữa vòng vây của địch, một trong những vấn đề Trung đoàn bắt đầu phải lo giải quyết là việc cung cấp, tiếp tế lương thực, thực phẩm. Để bảo đảm cung cấp lương thực cho quân và dân Liên khu 1, trong đó có Trung đoàn Thủ đô, chiến đấu, Đảng ủy Mặt trận Hà Nội và Bộ chỉ huy tiền phương Chiến khu 2 chỉ đạo tìm nhiều cách bí mật vận chuyển lương thực, thực phẩm từ các vùng ngoại thành vào. Nhờ đó, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn có điều kiện bám trụ tiếp tục cùng quân và dân Hà Nội chiến đấu bảo vệ Thủ đô.

Sau trận Đồng Xuân (14-2-1947), Trung đoàn Thủ đô chỉ còn 5 ngày lương thực, trong khi đó, địch chuẩn bị lực lượng mở cuộc tiến công quy mô lớn. Sau khi nhận định nhiệm vụ chiến lược “giữ Hà Nội càng lâu càng tốt” của quân và dân Hà Nội đã cơ bản hoàn thành, Trung đoàn Thủ đô được lệnh rút ra ngoài để bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài. Kế hoạch rút quân và công việc chuẩn bị cho cuộc rút quân của Trung đoàn được bí mật chuẩn bị khẩn trương. Được nhân dân Thủ đô giúp đỡ, đến ngày 18-2-1947, chuyến thuyền cuối cùng chở bộ đội qua sông an toàn.

Với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, Trung đoàn Thủ đô đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt các hình thức chiến thuật, trong đó phục kích và phòng ngự chủ động, tích cực tiến công, tiêu diệt một phần sinh lực địch, giam chân chúng trong thành phố vượt thời gian dự kiến ban đầu, góp phần bảo vệ các cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ, Mặt trận di chuyển ra vùng căn cứ và thực hiện cuộc rút quân an toàn để bảo toàn lực lượng bộ đội chủ lực, cùng quân và dân cả nước tiếp tục kháng chiến. Đây là một sự kiện hiếm có về một cuộc rút lui ra vùng tự do “quân không thiếu một người, súng không thiếu một khẩu”, lập nên một chiến công thần kỳ rất đặc sắc trong lịch sử của Quân đội ta.

Đại tá, TS Dương Đình Lập