QĐND - Chưa đầy một tháng sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 23-9-1945, thực dân Pháp đã nổ súng vào Sài Gòn-Gia Định, quay trở lại xâm lược nước ta. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch với chủ trương “lấy vũ khí của địch đánh địch”, các ngành, các địa phương tích cực thu gom vũ khí, khí tài, phương tiện của địch rồi tiến hành phân loại, sửa chữa hồi phục và cải tiến lắp ráp để trang bị cho các lực lượng vũ trang. Bên cạnh đó, quân và dân ta đã chủ động nghiên cứu, tự lực sản xuất các loại vũ khí trang bị để đánh giặc.

Để bảo đảm vũ khí trang bị cho quân và dân ta chiến đấu, cả nước ta trở thành công trường sửa chữa, sản xuất vũ khí, đạn dược. cho các đơn vị thô sơ như: Gươm, dáo, cuốc xẻng, mìn, lựu đạn tự tạo... Ở Hà Nội, ta tập trung bảo đảm kỹ thuật, sửa chữa, cải tiến hồi phục vũ khí, nhất là bảo đảm cho sơn pháo 75mm cho 4 pháo đài: Láng, Xuân Tảo, Xuân Canh, Thổ Khối và 2 trung đội của Chiến khu 10, một đại đội sơn pháo 75mm của Chiến khu 2...

Cán bộ nghiên cứu của Xưởng quân giới Nam Bộ đang tập trung thiết kế loại vũ khí mới sử dụng phù hợp cho chiến trường. Ảnh tư liệu.

Ngoài cơ sở sửa chữa, sản xuất vũ khí ở Hà Nội, Sài Gòn-Gia Định, còn có các cơ sở xung quanh ngoại thành như  ở các tỉnh Thái Nguyên, Hải Dương, Nam Định, Huế, Bình Đình, Phú Yên, Bà Rịa, Tây Ninh... Các chi đội Giải phóng quân ở miền Nam đều thành lập các binh công xưởng để thu hồi, cải tiến, sửa chữa vũ khí của địch, chế tạo vũ khí phục vụ cho bộ đội đánh giặc. Các lực lượng vũ trang, du kích và công an cũng thành lập các dân quân xưởng, công đoàn xưởng, công an xưởng để sửa chữa và chế tạo vũ khí phục vụ kháng chiến, tiễu trừ Việt gian, phản động. Tại Bình Định, ta đã thành lập các xưởng chế tạo vũ khí chi viện cho chiến trường các tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Tiêu biểu như tháng 9-1945, lập xưởng Hoàng Hoa Thám (đứng chân tại An Khê) để thu nhặt súng, đạn của giặc Pháp - Nhật để lại, sửa chữa phục vụ cho bộ đội, làm súng tiểu liên, tự chế súng phóng. Xưởng Quang Trung thành lập tháng 10-1946, đóng tại Hoài Ân trong thời gian ngắn phục hồi 500 súng các loại, nhiều đạn pháo, đạn súng trường và trung liên, tiểu liên. Xưởng dân quân Võ Nghiêm thành lập tháng 10-1946 đã tích cực sửa chữa và sản xuất vũ khí trang bị cho dân quân, du kích của tỉnh Bình Định. Ở Huế đã thành lập Ban chế tạo vũ khí ngày 18-9-1945 và Công binh xưởng Phú Lâm để sửa chữa vũ khí, sản xuất các loại đạn súng trường, súng ngắn, lựu đạn, bom ba càng, băng đạn 20mm...

Các cơ sở sửa chữa, vũ khí địa phương đã nghiên cứu sản xuất thành công nhiều loại vũ khí lợi hại. Đầu năm 1946, tại Bà Rịa, binh công xưởng Chi đội 16 đã nghiên cứu chế tạo được loại đạn có sức công phá và sát thương lớn, đặt trên miệng nòng súng cối 81mm và phóng đi bằng khối thuốc phóng tự tạo. Binh công xưởng Chi đội 10 thu được 20 quả đạn cối 81mm còn mới của địch. Để sử dụng đạn, công nhân đã nghiên cứu chế tạo súng bằng cách dùng ống nước đường kính 80mm, đem tiện bên trong cho vừa kích cỡ viên đạn, gia công thêm vòng đai sắt bên ngoài để tăng cường độ chịu lực cho nòng súng, cắt đe làm giá súng. Súng tự tạo đã bắn được đạn cối 81mm để tiêu diệt địch. Trên chiến trường, Binh công xưởng Chi đội 12 chế tạo thành công súng cối 65mm và gia công thêm đai đạn cối 61mm để bắn trên súng cối 65mm. Ở Mỹ Tho, thợ của xưởng Ba Son mò được khẩu pháo cao xạ 24mm loại hai nòng, đã nghiên cứu cưa tách và gia công làm hai pháo lắp đặt trên hai thuyền, trang bị cho Chi đội 3 cơ động đánh địch trên sông Gò Công. Các binh công xưởng của các chi đội chiến đấu miền Nam trong hai năm 1945-1946 đã sản xuất hàng vạn lựu đạn các loại, địa lôi, thủy lôi, mìn lõm, bộc phá... để đánh địch. Đặc biệt sau này, các binh công xưởng, công an xưởng đã nghiên cứu chế tạo súng tiểu liên, súng ngắn theo mẫu súng của Mỹ, Pháp đưa vào trang bị, điển hình có tiểu liên Sten, súng ngắn CA-9 theo mẫu súng ngắn Col 9mm của Mỹ... Trên chiến trường Khu 5 và Nam Trung bộ, từ Khởi nghĩa Ba Tơ (11-3-1945), các đơn vị lực lượng vũ trang đã chủ trương tự trang, tự chế, cải tiến bom đạn của địch làm vũ khí đưa vào trang bị. 5 tháng sau ngày Toàn quốc kháng chiến, trên 7 tỉnh miền Nam Trung bộ đã thành lập 13 xưởng sửa chữa, sản xuất vũ khí. Các xưởng đã tự chế tạo lựu đạn, đạn chì, súng tiểu liên Sten, cải tiến vũ khí địch sử dụng theo cách đánh của ta. Các đơn vị lực lượng vũ trang còn lập các tổ lò rèn, rèn khí giới, sản xuất vũ khí tự tạo để đánh địch. Cơ sở Chu Lễ của miền Trung đã lập các xưởng sản xuất lựu đạn, mìn, súng kíp, súng phóng lựu, súng cối 60mm, 81mm đáp ứng cho chiến trường Bình Trị Thiên, Trung Lào.

Chuẩn bị cho Toàn quốc kháng chiến và bảo toàn lực lượng cho kháng chiến lâu dài, từ cuối tháng 10 đầu tháng 11-1946, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng các cơ sở bảo đảm kỹ thuật, nghiên cứu sửa chữa và chế tạo vũ khí, đồng thời di chuyển trang thiết bị, máy móc, phương tiện lên chiến khu. Chỉ trong vòng 3 tháng, ta đã vận chuyển được hơn 3 vạn tấn máy móc và dụng cụ sản xuất, hàng vạn tấn nguyên vật liệu ra vùng căn cứ. Riêng ở Bắc Bộ, hơn 65% máy móc được chuyển lên căn cứ Việt Bắc. Nhờ đó, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ta đã xây dựng được 57 cơ sở công nghiệp, chủ yếu là công nghiệp quốc phòng; sản xuất đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng cho các lực lượng vũ trang. Tại chiến khu Việt Bắc, xưởng Giang Tiên (Thái Nguyên) đã nghiên cứu thiết kế, chế tạo thành công súng Badoka theo mẫu súng của Mỹ để tiêu diệt xe tăng, xe cơ giới, phá các mục tiêu kiên cố của địch.

Tranh thủ thời gian, chủ động chuẩn bị về vũ khí trang bị kỹ thuật, quân và dân ta tự tin bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ và đã giành được thắng lợi quan trọng, mang tính chiến lược trong thời gian đầu Toàn quốc kháng chiến.

Giang Hồng Cương