Bước phát triển đáng ghi nhận

Từ nhà làm việc của Nhà máy Z129 (Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng) đi ra chừng vài trăm mét là ống khói cao tương đương nhà 3 tầng, đã rêu phong. Đây là “di tích” được Nhà máy để lại như lưu giữ một phần của lịch sử, còn hiện nay, Z129 là một trong những nhà máy cơ khí hiện đại bậc nhất của Quân đội ta. 

Theo Đại tá Nguyễn Phi Trường, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Công ty TNHH MTV Cơ khí chính xác 29-Bộ Quốc phòng (tên giao dịch dân sự của Nhà máy Z129): Với nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa, nghiên cứu các loại ngòi đạn (sản phẩm được ví như trái tim của vũ khí), trước năm 2015, Nhà máy Z129 vận hành những dây chuyền thiết bị do nước bạn giúp đỡ từ lâu, đã cũ kỹ, lạc hậu, nên năng lực sản xuất sản phẩm ngòi rất thấp, không đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Sau này, nhờ được đầu tư bài bản, cùng với khả năng sáng tạo, làm chủ kỹ thuật mới, từ chỗ chỉ sản xuất 3 loại sản phẩm theo thiết kế, Nhà máy Z129 đã chế thử, sản xuất ổn định hơn 70 loại ngòi đạn, trong đó nhiều loại có độ phức tạp và chính xác cao.

Với tinh thần “Chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường”, triển khai thực hiện Nghị quyết 382, ngành kỹ thuật Binh chủng Thông tin liên lạc đã có nhiều cách làm sáng tạo để nghiên cứu, chế tạo, làm chủ hoàn toàn sản phẩm ứng dụng trong quân sự, như: Phát triển các tính năng bảo mật, nhảy tần, chống tác chiến điện tử của các dòng máy vô tuyến điện công nghệ cao; khẳng định sự tự chủ, tránh phụ thuộc vào nước ngoài trong bảo đảm kỹ thuật, góp phần đào tạo nguồn nhân lực, tiết kiệm ngân sách, thời gian và bảo đảm an ninh quân sự. Theo đó, Binh chủng đã phối hợp với các đơn vị sản xuất được nhiều loại bảng mạch, vật tư của 100% thiết bị vô tuyến điện; 100% tổng đài cấp chiến dịch, chiến thuật; bảo đảm nguồn điện, an toàn cho 100% trạm thông tin chiến thuật... 

Nhân viên Kho J102, Cục Xe-Máy (Tổng cục Kỹ thuật) bảo dưỡng động cơ xe tăng T-55. 

Là một trong những giải pháp mà Nghị quyết 382 xác định, công tác nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật đã trở thành phong trào phát triển mạnh mẽ, sâu rộng trong toàn quân nhằm tập trung giải quyết 3 vấn đề lớn của ngành kỹ thuật: Bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, niêm cất VKTBKT có trong biên chế; cải tiến, hiện đại hóa một số VKTBKT; khai thác, làm chủ VKTBKT mới, hiện đại.

Trong 15 năm qua, riêng Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng đã triển khai thực hiện 675 đề tài nghiên cứu khoa học, công nghệ; trong đó, 315 đề tài được áp dụng vào sản xuất và đã có 191 loại vũ khí, khí tài, đạn dược, vật tư kỹ thuật được đưa vào sản xuất. 

Công tác nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được triển khai hiệu quả không chỉ đưa vào trang bị thêm nhiều loại khí tài, vật tư, linh kiện, mà còn góp phần quan trọng bảo đảm số lượng, chất lượng, chủng loại, đồng bộ VKTBKT cho các đơn vị, như: Có những tổ hợp tên lửa trang bị cho Quân đội ta từ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhưng đã được nghiên cứu, cải tiến, số hóa với tính năng ưu việt hơn hẳn nên vẫn đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, sử dụng hiệu quả. Từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết 382, Quân khu 1 có 1.528 sáng kiến; Quân khu 4 có 1.125 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được áp dụng trong công tác bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa VKTBKT; đến nay, toàn quân đã đồng bộ toàn diện VKTBKT cho 100% sư đoàn bộ binh đủ quân và các trung, lữ đoàn pháo phòng không, pháo binh, tăng thiết giáp; công tác bảo dưỡng, sửa chữa VKTBKT hằng năm đạt 100-115% chỉ tiêu kế hoạch...

Những khó khăn, thách thức cần tập trung tháo gỡ

Bên cạnh những thành tựu nổi bật, CTKT trong tình hình mới đang đứng trước một số khó khăn, thách thức.

Quân chủng Phòng không-Không quân và Quân chủng Hải quân là hai trong số các lực lượng được xác định tiến thẳng lên hiện đại. Hiện hai quân chủng này đang khai thác, sử dụng nhiều chủng loại vũ khí, khí tài tiên tiến, được mua sắm từ các nước có nền khoa học quân sự phát triển. Đặc biệt, một số loại VKTBKT thế hệ mới, công nghệ cao có cấu tạo phức tạp, nhiều thành phần thông minh, được chế tạo tự động hóa dưới dạng cụm, khối, tích hợp hệ thống điều khiển tự động, độ chính xác cao trong từng chi tiết; mã nguồn phần mềm điều khiển chế tạo được bảo mật, do nhà sản xuất nắm giữ... Với những loại VKTBKT hiện đại này, ngành kỹ thuật gặp rất nhiều khó khăn trong việc sửa chữa, thay thế linh kiện khi có hư hỏng; phần lớn các hư hỏng phải gửi đi nước ngoài sửa chữa, hoặc phải đặt hàng nhà sản xuất các cụm, khối, module tích hợp để thay thế... làm gia tăng nhiều đơn hàng lẻ, nhỏ, tốn kém ngân sách và thời gian.

Thượng tá Trần Trung Kiên, Chủ nhiệm Kỹ thuật Quân chủng Phòng không-Không quân cho biết: Bên cạnh sự cạnh tranh không lành mạnh, tính độc quyền trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh các sản phẩm quân sự, rồi sự bao vây, cấm vận, thì vật tư bảo đảm cho vũ khí, khí tài cũ cũng ngày càng khan hiếm, khó khai thác vì đối tác đã loại biên chế, không sản xuất vật tư thay thế... Đây là thực tế khó khăn trong CTKT hiện nay.

Theo Đại tá Trần Đức Thọ, Chủ nhiệm Kỹ thuật Binh chủng Thông tin liên lạc, trình độ công nghệ và khả năng sản xuất trang bị thông tin trong nước còn có những hạn chế nhất định nên công tác bảo đảm cho một số trang bị thông tin hiện đại còn phụ thuộc vào đối tác nước ngoài. 

Bên cạnh những khó khăn trong việc phải mua sắm VKTBKT hiện đại, công nghệ cao và linh kiện thay thế của nước ngoài, phụ thuộc về công nghệ, sửa chữa khi hỏng hóc, thì CTKT còn một số khó khăn, hạn chế, như: Năng lực của các cơ sở sửa chữa, sản xuất có mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhiều loại VKTBKT mới mua sắm chưa có công nghệ sửa chữa toàn diện; cơ sở bảo đảm kỹ thuật, hệ thống kho tàng, nhà che VKTBKT đã được đầu tư, nâng cấp nhưng còn thiếu, chất lượng chưa cao; biên chế tổ chức cơ quan, cơ sở kỹ thuật ở một số loại hình đơn vị chưa phù hợp; công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật có nội dung còn bất cập... Những hạn chế này cần đề ra lộ trình, giải pháp khoa học, cụ thể để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng CTKT trong tình hình mới.

Theo Trung tướng Trần Minh Đức, Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật: Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết 382 đã rút ra một số kinh nghiệm: Xác định các mục tiêu CTKT phải trên cơ sở dự báo đúng tình hình và khả năng bảo đảm; từng năm, từng thời điểm, phải xác định được nhiệm vụ trọng tâm, đơn vị trọng điểm để tập trung chỉ đạo và đầu tư; quá trình điều hành phải quyết liệt, kiên trì với mục tiêu đã xác định, có lộ trình và bước đi phù hợp...

(còn nữa)

 Bài và ảnh: SƠN BÌNH