Cuộc chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân Thủ đô thể hiện bước phát triển về nghệ thuật chỉ đạo tác chiến, trong đó nổi bật là sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt các hình thức tác chiến trong thành phố.

Vào thời điểm này, xét tương quan lực lượng ở Hà Nội, Pháp có 6.500 quân, gấp ta 3 lần về lực lượng chính quy, 9 lần vũ khí bộ binh, 6 lần pháo binh và chiếm ưu thế tuyệt đối về xe tăng, thiết giáp, máy bay, cơ giới và kỹ chiến thuật. Pháp đóng quân ở 52 vị trí, trong đó chiếm những vị trí quân sự quan trọng, như: Thành Hà Nội, Phủ toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch), Trường Albert Sarraut (nay là tòa nhà số 2 Hoàng Văn Thụ), Trường Bưởi (nay là Trường Chu Văn An), khu Đồn Thủy (nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108), sân bay Gia Lâm...

Địch chiếm ưu thế hơn ta về quân số và vũ khí, trang bị, Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội xác định phương án tác chiến: Bố trí lực lượng cơ động nổ súng tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, sau đó nhanh chóng tổ chức thành hai bộ phận: Bộ phận bí mật tiếp cận vào trong lòng địch đánh ra; bộ phận ở ngoài tạo vòng vây đánh vào, thực hiện “trong, ngoài cùng đánh”, không cho chúng rảnh tay đánh lực lượng ta ở bên trong, hoặc tiến công ra vùng hậu phương của ta.

Quân và dân Hà Nội dựng chiến lũy chống giặc Pháp tại phố Mai Hắc Đế (năm 1946). Ảnh tư liệu 

Theo hiệu lệnh, 20 giờ ngày 19-12-1946, khi đèn điện toàn thành phố vụt tắt, pháo binh ta ở Pháo đài Láng bắn vào sở chỉ huy địch, chính thức mở đầu Toàn quốc kháng chiến ở Thủ đô Hà Nội.

Những ngày sau, bộ đội ta chủ động tiến công vào 30 vị trí đóng quân của địch. Những trận chiến đấu đó, quân ta vận dụng sáng tạo, linh hoạt các hình thức tác chiến. Trong tiến công, ta vận dụng hai hình thức tập kích và phục kích. Khi tập kích, ta thường tổ chức lực lượng quy mô tổ, tiểu đội, trung đội, bí mật áp sát từng vị trí quân địch, rồi bất ngờ đột kích, dùng súng bắn thẳng, ném lựu đạn diệt bộ binh, phá hủy hoặc đốt xe quân sự, xe tăng, sau đó nhanh chóng rút quân an toàn.

Thời gian mỗi trận đánh tập kích diễn ra khoảng 10 đến 20 phút, khiến quân địch ở các vị trí lân cận không kịp chi viện ứng cứu, hoặc bao vây truy kích ta. Với những trận phục kích, ta thường ém sẵn quân ở hai bên dãy phố nội thành, hoặc trên bờ đê sông Hồng (các đoạn Thanh Nhàn, Vĩnh Tuy, Trần Quang Khải) chờ địch tiến công, ta chống cự rồi giả vờ thua chạy để quân địch truy đuổi. Khi chúng sa vào trận địa mai phục, ta bất ngờ tiến công dồn dập, khiến chúng thiệt hại nặng.

Trong tác chiến phòng ngự, dựa vào hệ thống kiến trúc cổ ở nội thành, bộ đội ta tổ chức hai loại trận địa: Một là, sử dụng nhiều loại đồ vật đặt làm chướng ngại dọc theo từng trục đường phố, tạo thành các chiến lũy để ngăn chặn xe tăng, xe thiết giáp, cơ giới, bộ binh của địch; đồng thời bí mật bố trí các hố bắn, tuyến bắn ở hai bên dãy phố để diệt xe cơ giới, tiêu diệt bộ binh địch.

Hai là, ta tổ chức trung đội, thậm chí có nơi là đại đội ở những vị trí trên nhà cao tầng để phát huy hiệu quả hỏa lực tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Sau đó, ta để lại một tổ đánh ngăn chặn, nghi binh địch, rồi bí mật rút phần lớn lực lượng ra ngoài tiếp tục chiến đấu.

Trong các trận tổ chức phòng ngự điển hình ở Ô Chợ Dừa, Ngã Tư Sở, phố Đội Cấn, Vĩnh Tuy, Nhật Tân, lúc đầu ta gặp khó khăn do địch tiến công hướng chính diện kết hợp với vu hồi, nhưng quân ta nhanh chóng phát hiện kịp thời và chủ động sử dụng cách đánh vu hồi khiến địch bị bất ngờ, không kịp trở tay.

Sau 60 ngày đêm quyết tử, quân và dân Hà Nội đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 2.000 tên địch, phá hủy 22 xe tăng, 31 xe quân sự, bắn rơi, bắn hỏng 7 máy bay, bắn chìm 2 ca nô, thu nhiều quân trang, quân dụng, bảo toàn được lực lượng ta.

Trong quá trình chiến đấu, tùy theo từng địa bàn, từng thời điểm mà ta vận dụng sáng tạo, linh hoạt các hình thức tác chiến, nhất là kết hợp giữa luồn sâu tập kích, bắn tỉa và đánh nhỏ, quần nhau với quân địch trên từng chiến hào, góc phố; cùng với cách đánh cảm tử của những chiến sĩ ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch.

Đặc biệt, ta đã kết hợp tác chiến tiến công địch với tổ chức phòng ngự một cách hệ thống và có trọng điểm. Chúng ta phòng ngự nhưng không cố thủ giữ đất mà chủ động cơ động, tìm nơi địch sơ hở để đánh.

Với cách đánh như vậy, bộ đội và tự vệ, công an xung phong, nhân dân đều phát huy được vai trò của từng lực lượng trong các trận chiến đấu và phục vụ chiến đấu, kết hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào và trong ngoài cùng đánh, tiêu diệt nhiều sinh lực địch; giam chân địch trong thành phố vượt thời gian dự kiến, góp phần bảo vệ các cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ, Mặt trận di chuyển ra vùng căn cứ an toàn, tạo khoảng thời gian thuận lợi cho cả nước chuẩn bị kháng chiến lâu dài, giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi cuối cùng. 

NGỌC SƠN