Đến khi quân Pháp chiếm TP Hải Phòng, ngày 23-11-1946, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng nhận định: Địch sẽ gây rối ở Thủ đô, chiến tranh trong cả nước là không thể tránh khỏi. Hội nghị quyết định: "Nếu quân Pháp đánh chiếm ở Hà Nội, như việc chúng đã làm ở Hải Phòng thì cả nước sẽ nhất tề đứng lên chiến đấu chống xâm lược". Dưới ánh sáng nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu xây dựng kế hoạch tác chiến trên toàn quốc và Hà Nội.
Thực chất, công tác chuẩn bị kháng chiến chống Pháp đã được chuẩn bị ngay từ sau Cách mạng Tháng Tám, với tầm nhìn chiến lược sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng, củng cố LLVT. Các chi đội Quân Giải phóng được phát triển thành các trung đoàn. Tranh thủ sự hòa hoãn với quân Tàu Tưởng và quân Pháp, ta khẩn trương xây dựng LLVT, đẩy mạnh xây dựng cả bộ đội chủ lực và LLVT tại chỗ, gồm: Dân quân, du kích, tự vệ chiến đấu, công an vũ trang. Đến trước khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Quân đội ta đã có khoảng 85.000 người. Sự chênh lệch về số lượng giữa Quân đội ta và quân Pháp không lớn, nhưng trình độ tác chiến, tổ chức, vũ khí trang bị kỹ thuật thì là một khoảng cách.
 |
Chiến sĩ cảm tử quân ôm bom ba càng đánh xe tăng Pháp ở thủ đô Hà Nội. Ảnh tư liệu. |
Trước tình hình căng thẳng leo thang do quân Pháp đẩy mạnh các hành động gây hấn, ngày 13-12-1946, Trung ương Quân ủy, Bộ Quốc phòng-Bộ Tổng chỉ huy triệu tập hội nghị các khu trưởng tại thị xã Hà Đông. Hội nghị quyết định: "Phải chuẩn bị cấp tốc để tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện và trường kỳ". Hội nghị rút kinh nghiệm tác chiến ở Nam Bộ, Hải Phòng, Lạng Sơn, kiểm điểm công tác chuẩn bị kháng chiến đề ra từ Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng, vạch kế hoạch tác chiến chung và phương án phá hoại, làm "vườn không, nhà trống".
Tại hội nghị, Bộ Tổng chỉ huy giao nhiệm vụ tác chiến cho các chiến khu: Chiến khu 11 tiêu diệt một bộ phận quân Pháp ở Hà Nội, tích cực bám đánh, giam chân địch một thời gian, tạo điều kiện cho cả nước chuẩn bị kháng chiến. Chiến khu 2 tiến công địch ở Nam Định bằng đường bộ và đường thủy. Chiến khu 3 tiến công quân địch đóng ở thị xã Hải Dương và cầu Phú Lương, cầu Lai Vu, phá cầu, phá đường số 5, đánh địch trên đường này, bao vây địch ở Hải Phòng, cắt liên lạc đường bộ Hải Phòng-Hà Nội. Chiến khu 12 đánh địch ở Bắc Giang, Bắc Ninh, bao vây địch ở Lạng Sơn, cắt liên lạc đường bộ giữa Lạng Sơn và Hà Nội. Chiến khu 4 tiến công địch ở Vinh và Huế, đánh địch tăng viện từ Đà Nẵng ra, cô lập địch giữa Huế và Đà Nẵng, giam chân chúng ở đây một thời gian, cắt liên lạc đường bộ giữa Huế và Đà Nẵng. Các chiến trường cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ có nhiệm vụ phát động chiến tranh du kích, tích cực tiến công địch, giam chân chúng, gây khó khăn cho quân Pháp trong việc tăng viện ra miền Bắc.
Trong thế quân Pháp đóng xen kẽ với quân ta, Bộ Tổng chỉ huy nhấn mạnh: Hành động tác chiến phải hết sức bí mật, bất ngờ, không để địch đánh úp ta, chú ý đánh vào chỗ quân địch sơ hở, vừa tiến công địch, vừa cùng nhân dân chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. LLVT có nhiệm vụ giúp đỡ các cơ quan di chuyển, phối hợp cùng các ngành tổ chức đưa nhân dân tản cư ra khỏi các vùng có chiến sự và đẩy mạnh công tác phá hoại để cản bước tiến của địch. Vệ Quốc đoàn phối hợp chặt chẽ với tự vệ chiến đấu và du kích để vừa đánh địch, vừa ra sức xây dựng lực lượng.
Ở Hà Nội, công tác chuẩn bị được tiến hành rất khẩn trương. Trung tuần tháng 12-1946, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Tổng bộ Việt Minh, Bộ Quốc phòng-Bộ Tổng chỉ huy bí mật rời khỏi thành phố. Căn cứ vào ý định tác chiến của trên, Hà Nội được chia thành các liên khu: 1, 2, 3. Các pháo đài Láng, Xuân Canh, Xuân Tảo chuẩn bị phần tử bắn vào những nơi quân Pháp chiếm đóng. Bộ đội, tự vệ cùng nhân dân thành phố đào hào, đắp lũy, dựng vật cản, chuẩn bị sẵn các phương tiện như ngả cây cối, cột đèn, đục tường từ nhà nọ sang nhà kia, nối thông các phố; tổ chức các khu cố thủ, trinh sát nắm địch; lập các đội cảm tử, tổ đánh xe tăng.
Trước sự gây hấn và khi Pháp gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí của LLVT ta, từ ngày 17 đến 18-12-1946, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), quyết định phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và quyết định thành lập Đảng ủy Mặt trận, Ủy ban kháng chiến thành phố để lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Hà Nội. Trưa 19-12, Ban Thường vụ Trung ương Đảng điện khẩn cho các mặt trận, chiến khu và các tỉnh ủy nêu rõ: "Giặc Pháp đã gửi tối hậu thư đòi tước khí giới của quân đội, công an, tự vệ của ta. Chính phủ đã bác tối hậu thư ấy. Như vậy, chỉ trong 24 giờ, chắc chắn quân Pháp sẽ nổ súng. Trung ương Đảng chỉ thị: Tất cả hãy sẵn sàng!".
Chủ trương đồng loạt nổ súng tiến công trong đêm 19-12 tại Thủ đô Hà Nội và các thành phố khác thể hiện sâu sắc tư tưởng chiến lược tiến công. Ta chủ động giành quyền đánh trước, đẩy địch vào thế bị động đối phó, phá tan âm mưu của Pháp định huy động toàn lực đè bẹp quân và dân ta bằng một đòn tiến công quân sự chớp nhoáng. Cuộc tiến công đêm 19-12-1946 đã làm đảo lộn những tính toán chủ quan trong kế hoạch xâm lược của bộ chỉ huy quân sự Pháp ở Đông Dương.
Thạc sĩ VŨ HỒNG KHANH