Các đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập tiến sâu vào vùng Pháp chiếm đóng, cùng cán bộ và nhân dân địa phương xây dựng cơ sở kháng chiến. Lực lượng vũ trang (LLVT) ba thứ quân đã được xây dựng hoàn chỉnh, gồm: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trong các vùng tạm bị địch chiếm, phong trào đấu tranh của nhân dân phát triển mạnh mẽ, nhất là ở các thành phố, thị xã.

Về phía thực dân Pháp, sau một thời gian đối phó với các cuộc tiến công của ta ở trung du, Đường số 18 và Hà-Nam-Ninh, chúng tăng cường chiến tranh tổng lực, đánh phá dữ dội cơ sở kháng chiến trong vùng tạm chiếm, cướp đoạt tài sản, giành giật nhân lực, vật lực, chống lại chiến tranh du kích, gây cho ta nhiều khó khăn mới. Các căn cứ du kích và khu du kích của ta ở đồng bằng bị đánh phá nặng nề; nhiều vùng bị chúng chiếm đóng trở lại. Hàng nghìn vị trí, tháp canh của địch được dựng khắp nơi. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta trong vùng tạm bị địch chiếm gặp rất nhiều khó khăn.

Bộ đội chủ lực Chiến khu 2 huấn luyện quân sự cho du kích tỉnh Phú Thọ. Ảnh tư liệu

Trước tình hình trên, Hội nghị Trung ương II (khóa II) của Đảng (họp từ ngày 27-9 đến 5-10-1951) tập trung bàn về "nhiệm vụ và phương châm công tác trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích". Hội nghị chia vùng sau lưng địch thành vùng tạm chiếm và vùng du kích, hoạt động theo hai phương châm: Vùng tạm bị địch chiếm lấy xây dựng cơ sở, đấu tranh chính trị và kinh tế làm chính; vùng du kích lấy đấu tranh vũ trang làm chính, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và kinh tế. Có 3 công tác chính: Dân vận, vận động ngụy binh và đẩy mạnh chiến tranh du kích, trong đó dân vận là gốc của mọi công tác.

Thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương II, quân và dân trong cả nước đẩy mạnh hoạt động, chuyển hướng mạnh mẽ công tác tác chiến trong vùng sau lưng địch, phối hợp chặt chẽ chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, giành thắng lợi mới.

Để đối phó với ta, quân Pháp muốn có một thắng lợi quân sự để xoa dịu dư luận, trấn an tinh thần binh sĩ, vừa để tranh thủ viện trợ của Mỹ, nên đã vạch ra kế hoạch quân sự, mở cuộc hành quân Lotus đánh chiếm Hòa Bình-Đường 6-Sông Đà-Ba Vì.

Ngày 24-11-1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 22 về "Nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch". Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch đánh địch trên cả hai mặt trận: Chính diện (Hòa Bình) và sau lưng địch (trung du và Đồng bằng Bắc Bộ). Lực lượng tham gia đánh địch ở mặt trận Hòa Bình có 3 đại đoàn (308, 312 và 304); ở mặt trận sau lưng địch có 2 đại đoàn (316 và 320). Ngoài ra, lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích cũng được điều động phối hợp.

Sau hơn hai tháng chiến đấu (từ ngày 10-12-1951 đến 25-2-1952), trên cả hai mặt trận, quân và dân ta đã giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn khu vực Hòa Bình-sông Đà. Chiến thắng này giúp ta mở rộng các căn cứ du kích và nối liền thành một thế liên hoàn từ Bắc Giang xuống Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông, hình thành các vùng căn cứ du kích, khu du kích liên hoàn giữa các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường Bình-Trị-Thiên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích, liên tục tiến công, phát triển lực lượng kháng chiến, mở rộng thêm nhiều vùng căn cứ, làm thay đổi cục diện chiến trường theo chiều hướng ngày càng có lợi cho ta.

Sau khi thất bại trong Chiến dịch Hòa Bình, thực dân Pháp huy động lực lượng chủ lực mở các cuộc càn quét ở vùng chúng tạm chiếm trong suốt 5 tháng liền với hy vọng cứu vãn nguy cơ ở đồng bằng. Quy mô các cuộc càn quét lần này rất lớn. Riêng trong chiến dịch Mercure (Thủy ngân), từ ngày 25-3 đến ngày 26-4-1952, đánh vào vùng Tây Nam tỉnh Thái Bình, thực dân Pháp sử dụng tới 5 binh đoàn (tương đương 20 tiểu đoàn bộ binh), 2 tiểu đoàn cơ giới cùng với hỏa lực pháo, tàu chiến, ca nô và một số quân dù bao vây càn quét khu vực 4 huyện: Thái Ninh, Kiến Xương, Tiền Hải và một phần huyện Vũ Tiên, nơi đặt cơ quan của Bộ tư lệnh Đại đoàn 320 và Tỉnh ủy Thái Bình. Nắm chắc tình hình, ta đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống bắt thanh niên vào lính, mở rộng cơ sở kháng chiến.

Tác chiến trong vùng địch hậu là một trong những sáng tạo nghệ thuật tác chiến hết sức tài tình của Đảng ta, nhờ đó đã từng bước đẩy lùi, tiến tới đánh bại hoàn toàn đội quân xâm lược nhà nghề, có vũ khí trang bị hiện đại của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Nghệ thuật tác chiến này vẫn giữ nguyên giá trị cho công cuộc bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

PGS, TS HOÀNG MINH THẢO