Theo thống kê, khối lượng bom đạn của không quân địch ném xuống tuyến đường là 2.235.918 tấn, xấp xỉ 1/5 tổng số bom đạn địch ném xuống toàn bộ chiến trường Đông Dương, vượt số lượng bom Mỹ dùng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tính trung bình khoảng 100 tấn bom/km đường vận chuyển.

Mỹ đã biến đường Trường Sơn thành nơi thử nghiệm các chiến lược và thủ đoạn chiến thuật, cũng như các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất thời bấy giờ. Tuy nhiên, dưới bom đạn ác liệt của địch, tuyến vận tải quân sự chiến lược vẫn hiên ngang tồn tại và không ngừng lớn mạnh, phát triển, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Góp phần để tuyến đường Trường Sơn trở nên huyền thoại, có sự đóng góp của Bộ đội Phòng không (BĐPK). Cùng với sự phát triển của tuyến vận tải quân sự, BĐPK ngày càng trưởng thành, từ những phân đội súng máy chiến đấu phân tán ban đầu đã trở thành hệ thống phòng không khá hoàn chỉnh. Tính đến tháng 7-1971, lực lượng phòng không trên tuyến đường Trường Sơn bao gồm: Sư đoàn Phòng không 377 (có 6 trung đoàn), 12 trung đoàn cao xạ và tên lửa độc lập, cùng 28 tiểu đoàn cao xạ của 25 binh trạm trên toàn tuyến...

Bộ đội Pháo cao xạ bắn máy bay địch bảo vệ tuyến đường Trường Sơn. Ảnh tư liệu

Trong tác chiến bảo vệ đường Trường Sơn, BĐPK đã quán triệt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phối hợp thực hiện nhiều biện pháp kỹ thuật, chiến thuật để che giấu lực lượng, nghi binh đánh lừa địch. BĐPK đã phối hợp với các lực lượng tổ chức triển khai làm nhiều đường vòng, đường tránh, hạn chế lực lượng xe qua các khu vực trọng điểm địch đánh phá, đồng thời, xây dựng các trận địa giả, làm các xe giả, khí tài giả, cung đường vận chuyển giả để nghi binh, đánh lừa, thu hút không quân địch. Theo thống kê chưa đầy đủ, hoạt động nghi binh của 4 đơn vị (binh trạm) đã thu hút được 15% số bom đạn của không quân địch. Ta đã khai thác triệt để yếu tố địa hình, địa vật, thiên nhiên trên dãy Trường Sơn để thiết lập các bãi tập kết, các chân hàng chiến lược, các kho chứa hàng, tránh sự trinh sát, phát hiện của không quân địch, hạn chế tổn thất khi địch tổ chức đánh phá. Đồng thời, BĐPK tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng kiên quyết đánh trả địch. Mặc dù địch nâng cường độ đánh phá ác liệt bằng không quân lên mức độ cao nhất có thể, đưa vào sử dụng máy bay AC-130A Spectre được lắp các khí tài trinh sát hồng ngoại và khuếch đại ánh sáng mờ tiên tiến nhất, song BĐPK đã sáng tạo các biện pháp đánh trả hiệu quả, bắn rơi nhiều máy bay AC-130A, bảo vệ cho đội hình xe vận chuyển và các mục tiêu, các đơn vị trên tuyến đường Trường Sơn ở mức độ cao nhất.

BĐPK đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, làm thất bại âm mưu và thủ đoạn đánh phá của không quân địch. Sức mạnh đó được phát huy cao nhất bằng nghệ thuật tổ chức chỉ đạo và chỉ huy tập trung, thống nhất. Ở mỗi trọng điểm, đoạn đường bị địch đánh phá quyết liệt đều tổ chức ban chỉ huy thống nhất để điều hành tập trung và tổ chức hiệp đồng các lực lượng. Trong các chiến dịch vận tải, tổ chức phòng không đã trở thành một trong những biện pháp bảo đảm cơ bản; lực lượng phòng không là một trong những thành phần lực lượng chủ yếu của chiến dịch. Để hình thành thế trận đánh máy bay địch trên toàn tuyến, BĐPK đã phát động mọi lực lượng tham gia bắn máy bay địch, do BĐPK làm nòng cốt. Do tuyến đường cần được bảo vệ dài hàng chục nghìn ki-lô-mét (bao gồm cả các tuyến đường ngang), BĐPK không thể đáp ứng yêu cầu đánh địch mọi lúc, mọi nơi, nên cách giải quyết hiệu quả nhất là huấn luyện và trang bị thích hợp cho các lực lượng trên toàn tuyến tham gia. Với cách tổ chức như vậy, trên toàn tuyến đường Trường Sơn đã hình thành lực lượng phòng không rộng rãi và lực lượng phòng không nòng cốt, tạo nên thế trận đánh địch rộng khắp và đánh tập trung, có trọng điểm.

Để nâng cao hiệu quả tác chiến, BĐPK đã nắm vững nhiệm vụ và đặc điểm hoạt động vận chuyển của tuyến vận tải chiến lược nhằm bố trí thế trận linh hoạt trên nguyên tắc kết hợp giữa tập trung bảo vệ trọng điểm với cơ động chiến đấu trên từng khu vực và toàn tuyến. BĐPK được tổ chức thành hai bộ phận: Bộ phận chốt bảo vệ trọng điểm và bộ phận cơ động ứng cứu trên toàn tuyến. Đối với trọng điểm lớn, tổ chức thành trung đoàn, có từ 5 đến 6 đại đội bố trí vòng trong và từ 1 đến 2 tiểu đoàn pháo 37mm cơ động vòng ngoài. Đối với các trọng điểm nhỏ, tổ chức thành tiểu đoàn, có từ 3 đến 4 đại đội. Đối với các bến phà lớn, tổ chức thành hai cụm ở hai phía. Đối với bộ phận cơ động, tổ chức thành phân đội nhỏ, với quy mô từ cấp tiểu đoàn trở xuống, có sức cơ động cao và khả năng tác chiến độc lập.

Hiệu quả của việc vận dụng nguyên tắc kết hợp bảo vệ trọng điểm và cơ động đã được thực tiễn chiến đấu chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Trong tổng số máy bay địch bị BĐPK bắn rơi trên toàn tuyến, có 48% máy bay địch bị bắn rơi ở các trọng điểm; 14% bị bắn rơi ở các cung đoạn vận chuyển đêm và 38% do lực lượng cơ động bắn rơi.

 Đại tá VŨ HỒNG KHANH