Ngày ấy Nam Đông nằm trong vùng kiểm soát của quân giải phóng nên thung lũng Khe Tre không bị đánh chiếm, buôn làng tương đối trù phú, thanh bình giữa cảnh chiến sự vẫn diễn ra quanh các điểm cao gần đó. Các buôn làng của người Pa Cô, Vân Kiều sống ven chân núi. Do bom đạn chiến tranh nên đồng bào không canh tác dưới thung lũng, vì vậy cây cối, lau lách, rau rừng dưới suối tốt um tùm. Nhiều lần đi lấy rau, tôi lững thững đi dọc đường 73 ngắm thung lũng Khe Tre mà mơ tưởng như đang đi giữa cánh đồng. Đặc biệt ven đồi giáp ranh núi ở Khe Tre rất nhiều cây gạo cổ thụ, tháng ba hoa gạo nở đỏ, cây gạo giống như khối lửa khổng lồ. Những giây phút ấy tôi lại lâng lâng nhớ về làng tôi, nhớ trong ký ức làng mình có cây gạo Đồng Tương, nơi những năm “Ba mươi-ba mốt” thường nổ ra những cuộc biểu tình chống Pháp của tổ chức Nông hội đỏ, ai lớn lên dù không còn hình ảnh ấy vẫn nghe, đi xa vẫn nhớ.
Hầm chỉ huy tiểu đoàn đặt bên cạnh con suối cách đường 73 chừng mươi phút đi bộ. Cuộc họp của chỉ huy tiểu đoàn bất thường vào khoảng 22 giờ, vốn là người sống bên cạnh chỉ huy, chúng tôi đoán có nhiệm vụ đột xuất. Ban chỉ huy tiểu đoàn hôm ấy có anh Bỉnh tiểu đoàn trưởng, anh Lê Văn Hân chính trị viên, anh Tăng Văn Phả tiểu đoàn phó. Đang họp, anh Phả gọi tôi và Nguyễn Văn Son lên hầm chỉ huy. Nhìn gương mặt căng thẳng của các thủ trưởng tôi đoán có việc gì rất gấp gáp và quan trọng. Anh Phả bảo tôi và Son xuống hầm ban hậu cần nhận hai lạng gạo và mấy hộp thịt về nấu cháo để “bồi dưỡng cho ban chỉ huy”.
Anh Phả cẩn thận còn viết ra giấy “Bồi dưỡng 2 lạng gạo + thịt hộp” để tôi cầm xuống ban hậu cần. Ngày ấy tiểu đoàn đang lâm vào cảnh thiếu lương thực, thực phẩm nên để bộ đội không đứt bữa, ngoài khẩu phần cung cấp ít ỏi, hậu cần phải nhờ đồng bào giúp đỡ khoai, sắn thêm vào bữa ăn của bộ đội. Vì vậy việc xuất ra vài lạng gạo cũng là việc người chỉ huy phải đắn đo. Cái đói, cái thiếu trong chiến trường là chuyện hết sức bình thường, chính vì vậy trong bữa ăn cũng phải nhìn nhau, nhường nhau.
Tôi và Son hì hục nấu nồi cháo thịt hộp, cháo chín rồi mà cuộc họp chỉ huy vẫn chưa xong. Quá nửa đêm, cuộc họp xong thì cháo đã lạnh ngắt, hai đứa bê lên, mỗi người húp vội một muôi và về hầm chuẩn bị ngay cuộc hành quân. Chỉ mấy chục phút sau, chúng tôi đã khoác ba lô lên đường, trời tối như mực, ra đến đường 73 thì đi ngược. Tôi đi với anh Phả và Son đi với anh Hân. Tôi hỏi đi đâu, anh Phả nói: “Đi chiến đấu chứ đi đâu!”.
Cuộc hành quân ấy bất ngờ đến nỗi chúng tôi không chuẩn bị được nước uống vào các bi đông cho các thủ trưởng. Hành quân trong đêm ai cũng ướt đầm mồ hôi, đi mãi, đi mãi vẫn không thấy một con suối nào. Đến lúc bắt gặp một vũng nước lờ mờ trên con suối cạn, tôi dí bi đông xuống lấy đầy nước và bỏ vào hai viên thuốc sát trùng. Vừa hành quân vừa uống, đến sáng thì hết bi đông nước. Đến giờ nghỉ chuẩn bị nấu cơm, tôi dốc bi đông rửa thì trôi ra hàng chục con nòng nọc, nhìn thấy mà giật mình không dám nói gì với anh Phả.
Đó là một ngày vào giữa năm 1974. Chiến dịch mùa khô đã bắt đầu.
NGUYỄN HỒ