Với mục đích giải tỏa áp lực do ta gây nên ở khu vực đồng bằng, nhằm thu hút lực lượng chủ lực của ta về một địa điểm do chúng định sẵn ở vùng núi để tiêu diệt, theo Kế hoạch Navarre, ngày 20-11-1953, Pháp mở cuộc hành quân Castor, cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và bắt đầu xây dựng tập đoàn cứ điểm ở đây. 

Sau thời gian thu thập tin tức tình báo để biết được quy mô của tập đoàn cứ điểm này cũng như lực lượng của chúng, ngày 6-12-1953, ở An toàn khu (ATK) Việt Bắc, Tổng Quân ủy đã trình Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiến dịch này do Đại tướng Võ Nguyễn Giáp làm Tư lệnh, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Tham mưu trưởng... 

Trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ Tố Hữu có hai câu: "Từ khi vượt núi băng đèo/ Ta đi Bác vẫn dõi theo từng ngày”, thì chữ “ta” ở đây không để chỉ tác giả, mà chỉ chung những người tham dự Chiến dịch Điện Biên Phủ, mà cụ thể hơn là các đoàn quân sự của ta rời ATK tới Điện Biên Phủ. Có hai đoàn quan trọng. Đoàn thứ nhất do Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Tham mưu trưởng Chiến dịch, cùng các sĩ quan đại diện cho các binh chủng: Pháo binh, Công binh, Thông tin liên lạc, Hậu cần... cùng một số cố vấn quân sự của Trung Quốc. Lúc này Đại tướng Võ Nguyễn Giáp còn bận chỉ đạo quân sự cả nước nên chưa đi được. Đoàn này khởi hành giữa tháng 12-1953. Mấy tuần sau, đoàn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng lên đường. Trước khi đi, hôm 5-1-1954, Đại tướng đến lán Khuôn Tát chào Bác Hồ. Bác căn dặn nhiều điều quan trọng, trong đó có hai vấn đề Đại tướng ghi sâu vào tâm khảm. Đó là “Tướng quân tại ngoại” và “Đánh phải chắc thắng, không chắc thắng không đánh”! 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí trong Bộ Chỉ huy chiến dịch họp bàn phương án tác chiến tại Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu 

Ngày 14-1-1954, Bộ chỉ huy chiến dịch họp tại hang Thẩm Púa. Dù còn rất nhiều phân vân, nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đại diện Bộ chỉ huy Mặt trận phổ biến lệnh tác chiến theo phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” trong ba đêm hai ngày, đã được Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương cùng Bộ Tổng Tham mưu phê duyệt. Phổ biến xong kế hoạch tác chiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quay lại nhìn từng khuôn mặt đồng chí và hỏi: “Ai có ý kiến gì không”? Tất cả im lặng. Đại tướng lại lần lượt nhìn từng người, nhắc lại câu hỏi, chứng tỏ ông rất muốn có ý kiến nêu những khó khăn khi thực hiện phương án này, để có lý do bàn lại, nhưng tất cả vẫn im phắc phắc, buộc ông tuyên bố kết thúc hội nghị. 

Thời gian từng ngày nặng nề trôi qua cho đến tối 25-1-1954. Tư lệnh suy nghĩ, ông ngồi yên lặng bên bàn, nhìn xuống tấm bản đồ quân sự. Tự nhiên ông cảm thấy đầu đau bất thường, đưa bàn tay bóp trán. Bác sĩ quân y lại gần, đo nhiệt độ rồi tìm một nắm ngải cứu hơ nóng, buộc vào trán Đại tướng. Xong, Đại tướng bảo bác sĩ đi ra ngoài để mình ông được yên tĩnh. Đại tướng nhớ hôm chia tay Bác Hồ ở lán Khuôn Tát. Bác nhắc lại nhiều lần bốn chữ “Tướng quân đại ngoại”, nghĩa là Bác đã tin mình và giao cho mình tự quyết định mọi vấn đề khi ở mặt trận. Thế cũng có nghĩa mình là người chịu trách nhiệm về kết quả chiến dịch. Lại nhớ khi chia tay, Bác nhấn mạnh: “Đánh chắc thắng, không chắc thắng không đánh”. Với phương án chỉ đánh trong ba đêm hai ngày, đã bảo đảm chắc thắng chưa? Nhẩm lại những điều thuận lợi của ta mà nhiều người nhắc tới, Đại tướng thấy nhiều khó khăn nổi cộm. Cố vấn nói, Quân đội ta có kinh nghiệm chiến đấu ở rừng núi, nhưng Điện Biên không chỉ có rằng núi, mà có thung lũng đồng bằng dài đến 15km, rộng 5km. Theo trinh sát của ta, trận địa của Pháp xây dựng trên những ngọn đồi giữa đồng bằng ấy, mà trận địa gần bìa rừng nhất, quân ta muốn tiếp cận được cũng phải hành quân bộ trên hai trăm mét giữa đồng bằng. Nói Mường Thanh là lòng chảo, quân ta có ưu thế từ trên cao đánh xuống, điều đó chỉ đúng lúc khởi đầu chiến dịch, chứ khi ta tràn xuống thung lũng rồi, thì ưu thế đó thuộc về kẻ địch, bởi trận địa chúng trên đỉnh đồi, còn quân ta dưới thung lũng. Bảo rằng cấp tập hai ngàn quả đại bác 105mm, làm tê liệt pháo binh giặc, rồi bộ binh ta tràn xuống, thì lấy gì bảo đảm sau loạt đạn cấp tập đó pháo binh giặc tê liệt? Nói quân ta có ưu thế đánh đêm, nhưng hai ngày theo dự định, quân ta phơi lưng giữa cánh đồng Mường Thanh thì chống chọi thế nào với hỏa lực của địch, kể cả máy bay ném bom?  

“Rõ là chủ quan”! - Đại tướng cất lên thành lời. Đồng chí bác sĩ bước vào, nhắc thủ trưởng đi ngủ, vì trời sắp sáng rồi. Đại tướng không trả lời, và ra hiệu cho bác sĩ lui ra ngoài, rồi ông lấy giấy ghi lại những ý chính: Bộ đội ta đánh hiệp đồng chưa quen, chưa thành công, điển hình là trận đánh cứ điểm Nà Sản năm 1953. Trận này đòi hỏi hiệp đồng rất lớn, nhưng giữa pháo binh và bộ binh ta chưa được luyện tập kỹ. Bộ đội ta quen đánh đêm, có địa hình ẩn náu, còn nếu đánh theo phương án cấp tập này, bộ đội ta chưa quen, nhất là phơi ra giữa ban ngày trên địa hình bằng phẳng, trống trải, khi hoả lực của địch cực mạnh, thì ta khó tránh khỏi thất bại...

Đại tướng đặt bút xuống bàn, đứng dây vươn vai, tháo nắm ngải cứu trên trán đặt xuống bàn thì nghe tiếng chim rừng cất tiếng hót. Thế là trắng một đêm trong căn lán ở bản Nà Tấu, Đại tướng không hề chợp mắt. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta, Bác Hồ đã nhiều đêm không ngủ, vì Bác thương bộ đội, thương dân công chịu đựng gian khổ hy sinh, còn Đại tướng thức trắng đêm để suy nghĩ để đi đến một quyết định, mà theo Đại tướng là khó khăn nhất trong sự nghiệp cầm quân, mà theo tôi, đó là một quyết định vĩ đại: Hủy kế hoạch tác chiến “đánh nhanh, thắng nhanh”, chuẩn bị chiến thuật “ đánh chắc, thắng chắc”! 

Ngày 26-1-1954, theo kế hoạch cũ, chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa ta khai hỏa chiến dịch, Đại tướng triệu tập cuộc họp Bộ chỉ huy Chiến dịch. Trước đầy đủ những cán bộ chủ chốt và cố vấn, Đại tướng trình bày những điều ông đã suy nghĩ trong đêm qua, và đi đến kết luận: Phương án đánh nhanh thắng nhanh như ta đã thống nhất, không chắc thắng, mà Bác Hồ đã nhắc nhở “không chắc thắng không đánh”, các đồng chí nghĩ sao? 

Mặc dù không một ai trong cuộc họp dám bảo đảm chắc thắng nếu theo phương án tác chiến này, nhưng vẫn không tìm được tiếng nói chung giữa việc nên đánh như kế hoạch đã định nay nên hoãn lại. Cuối cùng Đại tướng kết luận: Tôi, với tư cách Tư lệnh Chiến dịch quyết định: Huỷ bỏ kế hoạch tác chiến “đánh nhanh, thắng nhanh” như chúng ta đã dự định, chuyển sang chuẩn bị chiến thuật “đánh chắc, thắng chắc”! Căn phòng lặng yên, nhiều vị cán bộ quay nhìn nhau, và ai cũng hiểu rằng, trước mắt, cuộc khai hoả vào 17 giờ hôm ấy không diễn ra nữa! 

Như chúng ta đều biết, chính thức Chiến dịch Điện Biên Phủ của ta mở màn vào ngày 13-3-1954, và kết thúc thắng lợi chiều 7-5-1954. Sau chiến thắng vĩ đại này, các nhà quân sự quốc tế hết sức ca ngợi Quân đội ta, ca ngợi quyết định tài tình của tướng Giáp. Với chủ đề này, có bài báo mang đầu đề giật gân: "Tướng Giáp suýt thua ở chiến trường Điện Biên Phủ”, nói rằng, nếu Việt Minh cứ đánh theo phương án cũ thì chắc chắn thua rồi! 

Trong hồi ký của mình, tướng Navarre cũng khẳng định: "Nếu tướng Giáp tiến công vào khoảng 25-1 như kế hoạch ban đầu thì chắc chắn ông ta đã thất bại. Nhưng không may cho chúng ta, ông ta đã nhận ra điều đó, và đây là một trong những lý do khiến ông ta ngưng tấn công”. 

Thiên tài quân sự của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã được thế giới hết lời ngợi ca. Tôi nghĩ rằng quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời cầm quân của ông: Huỷ bỏ kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh”, chuyển sang “đánh chắc, thắng chắc” là quyết định để lại dấu ấn rực rỡ nhất. Để thể hiện sự cảm phục và lòng biết ơn ông, năm 1994, dịp kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tôi có làm bài thơ nhỏ ghi lại một phần sự kiện này, trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

TRẮNG MỘT ĐÊM NÀ TẤU

Nắm ngải cứu Nà Tấu

Dịu bớt cơn nhức đầu

Trắng đêm, vị Tư lệnh

Thức với ngọn đèn dầu.

 

Quá trăm lần tự vấn:

"Có chắc thắng hay không?"

Bốn vách phòng yên lặng

Âm âm tiếng côn trùng. 

 

Đành rằng pháo lên đạn

Đành rằng quân sĩ hăng

Tinh thần là sức mạnh

Nhưng có mực, có chừng.

 

Chuyện đánh ngày, đánh lớn

Hiệp đồng, ta chưa quen

Gì bảo đảm chiến thắng

Trong hai ngày, ba đêm?  

 

Dốc toàn lực, ồ ạt

Không thắng được, là thua

Là trắng tay, sạch vốn

Tội này ai gánh cho? 

 

Hiểu câu "tướng tại ngoại"

Toàn quyền hoạch trận đồ

"Không chắc thắng, không đánh" 

Khi đi, Bác dặn dò. 

 

Phải chuyển sang kế hoạch

Đánh chắc thắng, lâu dài!

Vị Tư lệnh mở cửa

Gặp một rừng ban mai.

VƯƠNG TRỌNG