Là quốc gia quần đảo lớn nhất thế giới, Indonesia nằm ở vị trí chiến lược trên các tuyến hàng hải quốc tế, trong đó có các tuyến quan trọng, như: Eo biển Malacca, eo biển Sunda và eo biển Lombok. Xây dựng một nền quốc phòng đủ sức mạnh để bảo đảm an ninh, an toàn cũng như chủ động đối phó với các nguy cơ an ninh phi truyền thống đang gia tăng, như: Cướp biển, cướp có vũ trang, buôn lậu, khủng bố... trở thành nhiệm vụ hàng đầu cho lực lượng vũ trang (LLVT) nước này. Việc sở hữu một ngành công nghiệp quốc phòng (CNQP) tự lực, tự cường là rất quan trọng và cần thiết đối với Indonesia vì chi tiêu cho nhập khẩu vũ khí và các trang thiết bị quân sự rất tốn kém, trong khi nhu cầu của Indonesia lại rất cao.

Theo thống kê của cơ quan chức năng Indonesia, hằng năm việc nhập khẩu vũ khí và trang thiết bị quân sự của Indonesia từ các quốc gia đối tác chiếm phần khá lớn trong ngân sách vốn eo hẹp của nước này. Trong bối cảnh thắt chặt chi tiêu, dựa vào sức mình xây dựng nền CNQP là hướng đi mới của Indonesia. Năm 2010, các nhà lãnh đạo của nước này đã thành lập một cơ quan điều phối đề ra kế hoạch tổng thể trong phát triển ngành CNQP của riêng Indonesia. Tiếp sau đó, năm 2012, Chính phủ Indonesia ban hành một đạo luật hỗ trợ hoạt động này nhằm thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu trên.

Một phương tiện chiến đấu được các nhà máy của Indonesia sản xuất. Ảnh: Pinterest.

Trước đó, ngành CNQP Indonesia đã có giai đoạn phát triển đáng ghi nhận khi Bộ trưởng Nghiên cứu và Công nghệ Indonesia lúc bấy giờ là ông B.J. Habibie (sau này là Tổng thống Indonesia) trực tiếp chỉ đạo các hoạt động liên quan đến việc thực hiện mục tiêu này. Trong nhiệm kỳ của mình, ông B.J. Habibie luôn xác định CNQP là lĩnh vực ưu tiên, có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của Indonesia. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành CNQP của Indonesia. Tất cả mọi hoạt động liên quan đến quá trình này buộc phải dừng lại do không có kinh phí.

Qua giai đoạn khủng hoảng, ngành CNQP của Indonesia phục hồi chậm và gần như không có bước phát triển mới. Indonesia tiếp tục là một trong những quốc gia nhập khẩu vũ khí và trang thiết bị quân sự nhiều nhất khu vực Đông Nam Á. Theo số liệu thống kê năm 2016 của Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm, mức chi tiêu quốc phòng hằng năm của Indonesia là hơn 8 tỷ USD (chiếm khoảng 1% GDP) và là quốc gia đứng thứ hai ở khu vực Đông Nam Á sau Singapore (9,96 tỷ USD).

Tổng thống Indonesia Jokowi từng tuyên bố: Indonesia có kế hoạch tăng ngân sách quốc phòng lên mức tương đương 1,5% GDP trong thời gian tới, nhằm tập trung đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và sản xuất vũ khí, trang thiết bị quân sự phục vụ nhu cầu trong nước trong tình hình hiện nay. Hiện tại, một số doanh nghiệp quốc phòng của Indonesia đạt trình độ khá cao khi sản phẩm có thể xuất khẩu tới nhiều thị trường nước ngoài, như: Xuất khẩu súng trường tấn công sang thị trường Bangladesh, Các tiểu vương quốc Arab thống nhất; xuất khẩu xe bọc thép Anoa sang Brunei, Pakistan và Timor Leste; cung cấp tàu chiến cho Philippines; xuất khẩu máy bay cho thị trường Thái Lan, Brunei, Philippines, Hàn Quốc, Malaysia, Các tiểu vương quốc Arab thống nhất, Senegal, Burkina Faso và Venezuela… Trong khi đó, một số doanh nghiệp quốc phòng khác cũng thành công trong lĩnh vực sản xuất các thiết bị quân sự mặt đất; sản xuất và chế tạo linh kiện hàng không vũ trụ; đóng tàu và chế tạo linh kiện, phụ tùng cung cấp cho hải quân Indonesia... Những mô hình nhà máy này sẽ được đầu tư phát triển và nhân rộng.

Tuy nhiên, so với các nước có nền công nghiệp phát triển, CNQP của Indonesia hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Sản phẩm của các doanh nghiệp quốc phòng Indonesia chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của chính LLVT trong nước. Hiện Indonesia vẫn phải nhập khẩu một số phương tiện chiến đấu tiên tiến từ châu Âu, Mỹ, Hàn Quốc… để có thể đáp ứng được yêu cầu tác chiến trong tình hình mới.

Để đạt được mục tiêu tự lực, tự cường trong lĩnh vực CNQP, trước tiên Indonesia phải giải quyết vấn đề gốc rễ, cản trở sự phát triển của ngành CNQP của mình như việc tăng ngân sách quốc phòng và phân bổ thỏa đáng cho các chương trình nghiên cứu, phát triển vũ khí quân sự; hỗ trợ khách hàng (LLVT Indonesia) bằng cách cung cấp cho họ những điều kiện thuận lợi để tiếp cận sản phẩm hay các khoản tài chính ưu đãi nhất định. Chính phủ cũng có thể đưa ra quy định buộc LLVT nước này chỉ được phép mua sắm vũ khí, trang thiết bị quân sự từ các doanh nghiệp quốc phòng trong nước...

HOA HUYỀN