QĐND - Chiến tranh đã lùi xa, cứ nghĩ người đàn bà trong hòa bình cũng đã mỉm cười mà rời xa khỏi bom đạn, trận mạc để trở về với những thiên chức cao đẹp chính đáng của mình. Thế nhưng, từng ấy thời gian, những cô gái dân quân trên quê lúa Thái Bình vẫn nối tiếp nhau thao thức bên mâm pháo, canh đất, giữ trời.

Đứng bên trận địa pháo

"Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh", chí khí ấy, khẩu hiệu ấy, chuyện ấy có gì mới lạ nữa khi mà giờ đây chiến tranh đã lùi về quá khứ…?. Thế nhưng, mỗi khi nhắc đến ngã ba Đồng Lộc, tọa độ lửa Truông Bồn, hay những mẹ Thứ, mẹ Mít, Anh hùng Ngô Thị Tuyển… thì lòng người lại không khỏi quặn thắt, rưng rưng bao nỗi niềm.

Người ta kể lại, cứ sau mỗi trận đánh, khúc sông Kiến Giang chảy qua xã Đông Lâm, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình lại dậy sóng. Con sóng ấy duềnh lên từ tiếng khóc, tiếng cười và cả máu trên những cơ thể xuân thì của các cô gái áp bên mâm pháo khét lẹt mùi khói đạn.

Do tính chất nghiêm trọng của cuộc chiến, ngày 22-12-1967, Đại đội 4 Gái tập trung pháo 37mm, hay Đại đội dân quân Gái huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, được thành lập nhằm bảo vệ các công trình thủy lợi cho 40.000ha cánh nam của tỉnh, 3 cây cầu và trục đường giao thông quan trọng của huyện, đồng thời khống chế địch trên hai cửa sông Trà Lý và sông Hồng, chặn đánh các đường bay thấp của địch vào miền Bắc. Đại đội dân quân Gái đã đánh nhiều trận, bắn rơi 3 máy bay và làm bị thương nhiều chiếc khác.

Ngày 31-12-1973, Đại đội dân quân Gái đã được Nhà nước phong tặng Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân. Khi nhắc đến Đại đội này, người ta không thể nào quên những tấm gương chiến đấu dũng cảm của chị Tựa, chị Tám, chị Ngân, chị Nhiễu và biết bao con người khác nữa.

Các pháo thủ của Đại đội dân quân gái Thái Bình.

Xuyên qua con đường mòn rợp bóng phi lao, tôi đã nhìn thấy những nòng pháo dựng lên dáng chiều và nghe thấy thưa thưa tiếng cười con gái từ khoảng đồng xanh um cỏ cây ấy.

Đứng bên trận địa pháo, anh Huy-Tổng biên tập Báo Phòng không - Không quân chỉ tay về phía con sông mà rằng: “Sông Kiến Giang chỉ là một nhánh của sông Hồng chảy qua đây và từ đây đổ về biển lớn. Nhiều người cũng đưa ra những chứng tích về nguồn gốc của tên sông, tuy có khác nhau nhưng chung quy lại vẫn chỉ nói lên sự kiên trung của con người bên dòng chảy ấy”. Tôi đồng tình với anh, vì trên cùng một dòng chảy, nhưng qua mỗi địa phương, dòng chảy ấy lại mang một cái tên biểu trưng cho quê hương họ, chẳng thế mà vẫn có sông Cả, sông Cái… trên dòng sông Hồng đấy thôi. Tôi mông lung nghĩ về một dòng chảy. Dòng nước cũng tựa như dòng đời con người ta thì phải. Lúc trong, lúc đục, lúc êm ả, khi cuộn sóng, vơi, đầy theo năm tháng. Dòng chảy lịch sử của dân tộc ta tự ngàn đời đâu có khác chi. Bản năng sinh tồn và lòng tự hào dân tộc từ xa xưa cho đến thời Trưng Trắc, Trưng Nhị… rồi đến các mẹ, các mế, các chị đã sẵn sàng xả thân xông lên bảo vệ đất đai Tổ quốc thì thời nào chẳng có. Hơn nữa, ngày nay thì “binh nghiệp” chẳng là một cái nghề còn gì. Có thi thố, tuyển dụng mà lại tuyển dụng nghiêm ngặt là đằng khác. Tình yêu thôi chưa đủ, sức khỏe thôi chưa đủ, mà những thứ đó phải gắn kết với bản lĩnh và trí tuệ. Quê tôi, cũng như biết bao nhiêu miền quê khác, có biết bao cô gái muốn trở thành bộ đội mà đâu có được. Điều đó khẳng định cho yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của quân đội ta.

Như hiểu ý tôi, anh Huy cười: “Không chỉ đơn thuần là cái nghiệp, mà đã có ai nói đến cái "dân quân nghiệp" bao giờ”. Tôi và anh đi về nơi có những tiếng lao xao con gái.

Và nghe những thì thầm

Do yêu cầu nhiệm vụ, hiện tại, Đại đội dân quân Gái có 35 chị em, nhưng số thường xuyên tham gia trực chiến 24/24 giờ chỉ có 1 khẩu đội.

Chúng tôi đến khi đơn vị vừa xem xong một chương trình truyền hình về miền Trung. Miền Trung đang đằm mình trước lũ. Đau thương, mất mát nối dài trên từng hạt đất hằn in bao số phận người trên đất nước hình chữ S như ngàn đời nay vẫn thế. Quệt dòng nước mắt, ghìm nén những xúc động, nụ cười lại rạng rỡ căng trên khuôn mặt nấp nỏm, nhạt nhòa của các cô dân quân.
“Tối nay anh em ngủ lại với đơn vị cho vui?”. Tôi giật mình trước lời đề nghị tưởng đùa nhưng rất chân thật của Đại đội trưởng Phạm Thị Quýt.

Nằm cách trung tâm huyện lỵ có tiếng là sầm uất chưa đến chục cây số, ấy là chưa nói đến các khu du lịch như bãi biển Đồng Châu, Cồn Vòng… những câu nói ấy nghe như khách sáo mà chẳng khách sáo chút nào.

Chị Quýt kể: “Mình vào Đại đội dân quân Gái từ năm 1992 đến nay, nhiều lúc nghĩ đến gia đình, chồng con muốn nghỉ để đi tìm một công việc khác, nhưng mình không dứt được tình “yêu” với Pháo. Đã đành vẻn vẹn chỉ 1,2 triệu đồng một tháng đối với chỉ huy như mình, còn các chị em khác thì chỉ 1 triệu, ấy là mới tăng lương, trong khi đó ra ngoài làm công nhân thì thu nhập cao hơn, có thời gian chăm sóc cho gia đình hơn mà không phải “bám pháo” 24/24 giờ… nhưng...”. Tiếng nhưng bỏ ngỏ ấy làm chúng tôi không khỏi suy nghĩ, khi mà giờ đây tiếng gọi của cơm, áo, gạo, tiền luôn tiềm ẩn những ma lực ghê gớm, đôi khi nó lôi cuốn con người ta không thoát ra được. Những người thoát được nó để sống một cuộc sống dung dị, với những khát khao bình dị nhưng cao quý ấy mới thật trân trọng biết nhường nào.

Thấy tôi nhìn vào những hàng chăn vuông vức và thẳng tắp. Chị Bùi Thị Hợp, 38 tuổi, Pháo thủ số 2, quê Đông Lâm (Tiền Hải, Thái Bình) nhẹ nhàng nói: “Hầu hết chị em ở đây quê ở xã Đông Lâm này anh ạ. Tuy cách nhà không xa, nhưng chị em luôn tự giác chấp hành nghiêm các chế độ nền nếp như quân nhân. Hằng tuần, có bình xét và giải quyết chế độ tranh thủ theo đúng tỷ lệ quân đội quy định. Thi thoảng do yêu cầu nhiệm vụ mà lâu không về, thì chồng con vào thăm theo đúng giờ giấc nhà binh. Những khoảnh khắc đó mới thấy mình thật lính bao nhiêu”.

Vũ Thị Vóc 22 tuổi, Pháo thủ số 1, có 1 năm gắn bó với đơn vị thủ thỉ: “Bố em và cả anh trai em nữa đều là bộ đội. Em vào đây không với mục đích gì khác là để được rèn luyện, và thực sự với những gì đang có được em mới cảm nhận hết sự nhọc nhằn của người lính nói chung và lính con gái nói riêng. Chính những điều ấy làm em thêm tự hào về các thế hệ cha anh mình. Tự hào để thấy được trách nhiệm sống của mình dẫu sau này có thể em không còn ở lại với đơn vị nữa”.

Trăng đã lên cao. Lần đầu tiên, tôi được múc nước cho một cô gái gội đầu giữa một không gian tĩnh mịch này. Tôi bảo, nếu cấp trên tăng lương cao hơn, em có sẵn sàng ở lại đây phục vụ không, em cười: “Qua hơn 40 năm, lớp nối lớp, con gái quê em chưa bao giờ nói đến những câu chuyện về tiền trên trận địa pháo này. Có lẽ họ cũng như em khi đứng bên mâm pháo, ở trên mâm pháo mới thấy hết niềm thiêng liêng và giá trị của hòa bình. Nên chúng em đến đây không phải tìm một cách để sống mà đơn giản là tìm lẽ sống…”. Gáo nước gạn đáy trăng sóng sánh chảy xuống mái tóc làm tôi suy nghĩ bao điều.
Đoàn Thị Nhãn, 25 tuổi, cô Pháo thủ số 6-7 có khuôn mặt lúc nào cũng sẵn buồn, sẵn vất vả, nhìn về phía mảnh xác máy bay AD7 thổ lộ: “Em vào đây đã được 2 năm. Ở đại đội này mỗi người có một hoàn cảnh riêng nhưng có chung niềm tự hào và trách nhiệm. Chúng em coi nhau như chị em ruột trong nhà và khi tình cảm ấy gắn chặt bên mâm pháo khiến chúng em tự tin hơn trong mọi hoàn cảnh”. Được biết, trong những năm qua, Đại đội dân quân Gái luôn giành được giải cao trong các đợt hội thao, diễn tập bắn đạn thật ở các cấp, đó là kết quả của quá trình khổ luyện và tinh thần đoàn kết hiệp đồng cao. Tôi hỏi về Tết, Nhãn ngậm ngùi: “Em đã đón một cái Tết ở trên trận địa pháo này. Tuổi trẻ bao giờ cũng thế anh ạ. Lúc háo hức thì tưởng mình gánh được cả trời, nhưng khi ở những khoảnh khắc mời gọi có thật, chúng em chỉ biết ôm nhau khóc. Và cái đó cũng qua đi nhanh thôi khi biết, trên đất nước mình có đến bao nhiêu người nữa hơn chúng em, ví như các chiến sĩ nơi biên giới, hải đảo chẳng hạn. Dẫu thế nào thì ở đây cũng ngát mùi bánh chưng, mùi thịt nướng… Còn chẳng biết năm nay miền Trung, Tết sẽ thế nào?”.

Chị Lê Thị Mai 34 tuổi, Pháo thủ số 5, tủm tỉm: “Chúng em rất vui và vinh dự vì thi thoảng cũng có các đoàn đến thăm và kiểm tra sẵn sàng chiến đấu. Không chỉ các đoàn trong nước mà còn nhiều đoàn quốc tế như Nga, Ấn Độ, Lào… Tất cả đã mang đến cho Đại đội dân quân Gái niềm cổ vũ to lớn, sâu sắc. Chị em lấy đó làm niềm động viên để yên tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xứng danh với truyền thống con gái quê lúa Anh hùng”.

Trăng vằng vặc nằm nghiêng thả xuống trận địa pháo, những tâm tư, khát vọng của chị Quýt, chị Hợp, chị Mai, của em Ngoan, em Nhãn… càng cháy lên trên sóng mắt như muốn nói nhiều hơn thế nữa. Phép nhà binh không khác được. Phút chia tay, tôi không dám nhìn sâu vào những đôi mắt ấy, dẫu biết chỉ những hơi thở đất lúa ùa qua mặt sông Kiến Giang theo gió lùa vào lòng mình thôi đã mang nặng trĩu tâm tình. Và ngay lúc này đây, dưới gốc phi lao bên bãi biển Đồng Châu triều lên, bài hát "Nắng ấm quê hương" của nhạc sĩ Văn An mà Nhà báo Quang Huy đang nghêu ngao làm dài và sâu hơn những khát vọng trên quê lúa. Khát vọng làm vợi đi bao nỗi nhọc nhằn, làm tăng thêm nghị lực không chỉ của những cô dân quân Tiền Hải mà còn tạo nên cốt cách đặc trưng của người Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.   

Bài và ảnh: NGÔ TIẾN MẠNH