Trong những tư liệu đã cũ sờn, vô tình tôi tìm lại được bài thơ “Người anh hùng đến từ Hy Lạp” của nhà giáo, nhà thơ Nguyễn Đông Lĩnh (Hà Nội), mở đầu bằng những câu thơ hào sảng: Người anh hùng đến từ Hy Lạp/ Mấy chục năm đóng góp sức mình/ Cho Tổ quốc thứ hai-nước Việt quang vinh/ Bằng ngọn lửa và trái tim rực cháy. 

Ngày 7-1-2011, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trao quyết định Quốc tịch Việt Nam cho ông Kostas Sarantidis-Nguyễn Văn Lập. Ảnh: TTXVN 

Những vần thơ khiến tôi xúc động nhớ lại những lần được gặp bác Lập ở Việt Nam, hỏi những câu chuyện ăm ắp nghĩa tình với quê hương thứ hai Việt Nam của bác. Tôi thích nhất được nghe bác Lập kể về thời kỳ bác cùng các đồng đội Việt Nam chung một chiến hào, lưng cài lá mít nguỵ trang, thoắt ẩn thoắt hiện, đánh thắng những trận giòn giã ở chiến trường Liên khu 5. Hay những ký ức cảm động về những bà má nhân hậu đã yêu thương, đùm bọc bác và đồng đội suốt một thời hoa lửa. Câu chuyện người chiến sĩ quốc tế bắn rơi chiếc máy bay “Bà già” (Morane 500) ngày 6-11-1948 từ miền Bắc bay vào cho đến nay nhiều cụ ông, cụ bà ở Quảng Nam vẫn còn nhắc nhớ. Năm 2010, bác Lập về thăm lại ngôi làng đã che chở mình cùng đồng đội chiến đấu năm xưa ở Quảng Nam, một số người vẫn nhận ra người chiến sĩ quốc tế có khuôn mặt đôn hậu, tác phong gần gũi, đi chân đất, ăn khoai sắn năm nào. Sau bao nhiêu năm, bác vẫn nhớ và hiểu được tiếng địa phương ở Quảng Nam khiến bà con ai cũng vui lắm. Tiếng Việt của bác Lập vẫn còn khá sõi, dù tuổi đã cao, sức cũng yếu hơn nhiều. Nhất là bác còn nhớ tên, hỏi tìm đến tận nhà các đồng đội cũ, hay bà con từng cưu mang mình trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Liên khu 5. Theo những ghi chép của đồng đội về kỷ niệm với bác Lập, chàng trai Hy Lạp 19 tuổi thời đó luôn nhận mang vác những gì nặng nhất, luôn xung phong vào những nơi gian khổ, ác liệt nhất, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành xuất sắc... 

Trong số rất nhiều tác phẩm báo chí viết về bác Lập, tôi và một số đồng nghiệp của Báo Quân đội nhân dân may mắn được đóng góp một số bài viết nhỏ, góp phần tôn vinh và tri ân một người bạn quốc tế chân thành từng có 9 năm cùng nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp, lập nhiều chiến công và hơn 10 năm tham gia xây dựng miền Bắc mới giải phóng. Cơ duyên thế nào, bài viết đầu tiên trên Báo Quân đội nhân dân của tôi về người chiến sĩ quốc tế của Tiểu đoàn “Lá mít” năm xưa lại trở thành “cầu nối” để bác Lập và người đồng đội cũ tìm gặp lại được nhau sau một thời gian dài mất liên lạc. Tiểu đoàn “Lá mít” là biệt danh thân thương người dân đặt cho Tiểu đoàn 365, Trung đoàn 803, Liên khu 5. Sau khi bài viết được đăng, tôi bất ngờ nhận được bức thư, kèm một tấm ảnh chân dung thời trai trẻ của bác Lập cùng số điện thoại liên lạc của Đại tá Võ Văn Minh. Hóa ra, bác Võ Văn Minh (Quảng Nam) sau khi đọc được bài viết trên Báo Quân đội nhân dân vào năm 2005, đã mừng mừng tủi tủi nhận ra nhân vật trong bài chính là người bạn quốc tế từng "kề vai sát cánh" chiến đấu bên nhau ở Liên khu 5 ngày xưa, bèn viết ngay một bức thư gửi đồng đội người Hy Lạp. Nhưng khi đó, bác Minh lúng túng không biết làm cách nào để bức thư tới được tay đồng đội cũ nên đành chuyển thư đến Báo Quân đội nhân dân nhờ gửi tới địa chỉ của bác Lập ở Hy Lạp, với hy vọng sẽ có một ngày được tái ngộ. Bác Võ Văn Minh từng kể lại, sau đó một thời gian, bất ngờ bác nhận được một cuộc gọi từ Hy Lạp, giọng tiếng Việt trầm ấm của bác Lập khi đó bác vẫn còn nhớ như in. Bác Lập về sau còn có nhiều dịp tái ngộ với bác Minh cùng các đồng đội cũ ở Liên khu 5. Họ cùng nhau thăm lại chiến trường xưa, cùng ôn lại biết bao kỷ niệm cùng nghĩa tình đồng đội một thời sống chết bên nhau. 

Anh hùng LLVT nhân dân Việt Nam Kostas Sarantidis-Nguyễn Văn Lập và Đại tá Võ Văn Minh (người mặc quân phục) trong một lần tái ngộ cùng bạn bè tại Việt Nam. Ảnh tư liệu 

Tại Lễ trao tặng danh hiệu cao quý Anh hùng LLVT nhân dân Việt Nam của Nhà nước Việt Nam đối với bác Lập tại Hà Nội năm 2013, bác đã yếu lắm rồi. Không nói được gì nhiều, nhưng câu chuyện của bác ngày hôm đó đủ để tôi cảm nhận tình yêu son sắt, tình cảm trong sáng của người chiến sĩ quốc tế đối với Việt Nam. Năm đó dù sức khỏe không được tốt nhưng bác quyết tâm trở lại Việt Nam. Bác dặn lại vợ con nếu có mệnh hệ gì thì nhất định không được đưa bác về Hy Lạp mà hãy chôn cất bác ở Việt Nam, vì với bác, Việt Nam cũng là Tổ quốc, là quê hương. Tự hào là người nước ngoài duy nhất được phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng LLVT nhân dân Việt Nam, nhưng bác Lập luôn áy náy vì chưa làm được gì nhiều cho quê hương thứ hai của mình. Bác Lập khiêm nhường bộc bạch: “Tôi chưa làm được gì nhiều cho đất nước Việt Nam. Tôi xin hứa luôn xứng với danh hiệu “Anh Bộ đội Cụ Hồ”, xứng đáng là công dân gương mẫu của hai nước Việt Nam-Hy Lạp. Còn sống ngày nào, tôi còn đóng góp xây dựng đất nước Việt Nam yêu quý của tôi”.

Hết lòng với quê hương thứ hai, các con của bác Lập đều được đặt tên Việt Nam, cả họ lẫn tên. Bác Lập cũng đặt tên một số con cháu của mình là Nguyễn Thị Tự Do, thể hiện khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam và tên Hồ Minh-vị lãnh tụ thần tượng trong lòng bác. Được biết, trước khi sang với Việt Minh, chàng trai 19 tuổi Kostas đã viết thư về cho mẹ, trong đó viết: “Sắp tới con sẽ bước sang con đường mới. Con đường mới này sẽ vô vùng khó khăn, gian khổ. Nhưng mẹ ơi, mẹ hãy tin tưởng ở con, mẹ hãy cho con định đoạt mẹ nhé”. Một chàng trai 19 tuổi, quyết định đi theo con đường chính nghĩa và trung thành tuyệt đối cho đến mãi về sau. Một chàng thanh niên dám từ bỏ quân đội Pháp, nơi được trang bị đầy đủ, được trả lương, để sang hàng ngũ Việt Minh chịu đựng khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, nguy hiểm của chiến tranh cùng những người lính Việt Nam, quả là người có tấm lòng nhân hậu cùng ý chí dũng cảm phi thường. 

Sự có mặt của chiến sĩ quốc tế Kostas-Nguyễn Văn Lập trong hàng ngũ Việt Minh đã góp phần khẳng định cuộc đấu tranh chính nghĩa giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Giai đoạn 1953-1954, Kostas-Nguyễn Văn Lập được giao phụ trách Trại tù binh số 3 ở Quảng Ngãi, Liên khu 5 với vai trò Tổng giám thị. Thời gian này, ông được gọi bằng cái tên trìu mến “sếp Linh”. Thấm nhuần chính sách nhân đạo đối với tù hàng binh của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng các biện pháp quản lý thông minh, sáng tạo, đầy tình người, “sếp Linh” đã biến trại giam giữ tù binh thành nơi giáo dục, cải tạo và giác ngộ cho hàng trăm tù binh đủ mọi thành phần, quốc tịch. “Sếp Linh” dần dần cảm hóa được họ thành những người bạn của Việt Nam và khi được trao trả về nước đa số đều tỏ lòng biết ơn Nhà nước Việt Nam. Một số trong đó thậm chí trở thành nòng cốt trong các phong trào đấu tranh giải phóng đất nước mình sau này.

Sinh thời, hằng năm, bác Lập đều được Nhà nước Việt Nam mời về dự các ngày lễ lớn, dự hội nghị kiều bào, hội nghị chiến sĩ thi đua. Từ trước khi chính thức được nhận quyết định công nhận quốc tịch Việt Nam, bác Lập đã luôn tự nhận mình là công dân Việt Nam và có nhiều hoạt động thiết thực hướng về quê hương thứ hai của mình. Bác viết sách về quãng thời gian chiến đấu và công tác ở Việt Nam. Toàn bộ số tiền bán sách bác dành để ủng hộ nạn nhân chất độc da cam, đồng bào lũ lụt, trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh và các trường học khó khăn ở Việt Nam. Lần được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Hữu nghị, bác cũng gửi tặng toàn bố số tiền thưởng cho Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Quảng Nam, như chút tấm lòng thơm thảo nhớ tới công ơn các mẹ, các chị từng nuôi dưỡng, đùm bọc bác trong những năm tháng gian khổ, thiếu thốn của chiến tranh. 

Sau này, mặc dù đã trở về sống tại Hy Lạp vào năm 1965 cùng người vợ Việt, tấm lòng bác Lập luôn hướng về nơi mình từng một thời gắn bó, sống và chiến đấu. Có thời gian bác đã làm việc như một “đại sứ tình nguyện” của Việt Nam tại Hy Lạp, đó là trước khi Việt Nam chính thức mở sứ quán ở quốc gia này. Năng nổ với các hoạt động trong cộng đồng người Việt, bác Lập trở thành cầu nối cho tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Theo ông Vũ Bình, Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Hy Lạp, bác Lập chính là người đã giúp cộng đồng người Việt Nam thành lập Hội những người Việt Nam ở Hy Lạp. Nhưng sau đó bác đề nghị đăng ký tên gọi chính thức là Hội Hữu nghị Hy Lạp-Việt Nam, vì theo bác “nên có chỗ cho những người Hy Lạp yêu quý Việt Nam cùng tham gia”.

Kể từ khi bác Lập cùng gia đình trở về Hy Lạp sinh sống, đã có 8 lần bác quay lại Việt Nam. Vậy là bác không kịp thực hiện ước nguyện tròn 10 lần trở về quê hương thứ hai. Vĩnh biệt người anh hùng Việt Nam trên đất nước Hy Lạp! Việt Nam mãi ghi nhớ công ơn và ân tình sâu nặng của người chiến sĩ quốc tế Kostas-Nguyễn Văn Lập với tấm lòng trọn vẹn thủy chung.

MỸ HẠNH