Trong ngôi nhà nhỏ tại xóm Hòa Tiến, xã Hưng Lộc, thành phố Vinh, Nghệ An, câu chuyện giữa nhà báo Trần Văn Hiền với chúng tôi như những thước phim quay chậm. Nhà báo Trần Văn Hiền sinh năm 1948, là con trai đầu trong một gia đình nông dân nghèo ở huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) có 6 anh chị em. Bố ông là bộ đội công binh thuộc Đoàn 559, hy sinh năm 1967. Khi đó Trần Văn Hiền đang trên tuyến lửa làm công nhân giao thông, có mặt khắp các ngả đường, bến phà như: Cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa), cầu Bùng, cầu Cấm, phà Bến Thủy (Nghệ An), phà Long Đại (Quảng Bình)…
Trong bom rơi đạn nổ, hàng ngày, hàng giờ phải tận mắt chứng kiến những hy sinh, mất mát lớn lao của đồng đội, người công nhân Trần Văn Hiền đã viết nên những tập ký đăng tải trên các báo và được Đoàn Văn công Quân khu 4, Quân khu 5 dàn dựng biểu diễn. Năm 1969, ông về công tác ở Báo Nghệ An và đến năm 1974 Trần Văn Hiền được ra Hà Nội “học viết báo”. Năm 1977, ông ra trường tiếp tục về làm việc tại Báo Nghệ An. Năm 1993, ông được giao trọng trách làm Phó tổng biên tập Báo Nghệ An. Tròn 17 năm trên cương vị phó tổng biên tập, ông luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và có nhiều tác phẩm giá trị, ý nghĩa khi viết về những đồng nghiệp đã hy sinh tuổi thanh xuân trên các chiến trường. Từ năm 2010, ông công tác tại Văn phòng Hội Nhà báo Việt Nam khu vực Bắc Trung bộ ở Nghệ An.
 |
| Nhà báo Trần Văn Hiền giới thiệu cuốn sách “Dáng đứng dưới tầm bom” viết về chân dung, tấm gương 33 nhà báo liệt sĩ. Ảnh nhân vật cung cấp |
Hơn 50 năm cầm bút, trải qua cuộc chiến tranh chống Mỹ ác liệt, nhà báo Văn Hiền càng hiểu rõ hơn sự hy sinh của đồng nghiệp, đồng đội, những nhà báo đã cùng ông đi suốt chiều dài năm tháng. “Có người quê tận miệt vườn Cửu Long hay tận Thái Nguyên “Thủ đô gió ngàn”. Họ là lớp lớp những chiến sĩ - nhà báo tuổi còn rất trẻ, không ngại gian khổ hy sinh vào mặt trận và đã cho ra đời những tác phẩm hay, phản ánh kịp thời, chân thực về cuộc chiến tranh chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Mình may mắn sống sót thì phải làm gì đó để tri ân những đồng nghiệp đã hy sinh”, nhà báo Văn Hiền chia sẻ.
Trăn trở từ đáy lòng, đất nước yên bình, nhà báo Trần Văn Hiền bắt đầu lần giở, chắp nối những tư liệu về các đồng nghiệp nhà báo liệt sĩ như: Nông Văn Tư (Thái Nguyên), hai anh em ruột Bùi Văn Thưởng và Bùi Văn Tấn (Cai Lậy, Tiền Giang), Phạm Thị Ngọc Huệ (Kim Sơn, Ninh Bình), Nguyễn Thị Thanh Xuân (Quảng Bình)... Ông chắt chiu thời gian, công sức vào lại chiến trường nơi các anh, các chị hy sinh hoặc đến tận quê hương tìm lại gia đình, người thân, mất hàng chục năm gom nhặt tư liệu... để rồi cho ra đời cuốn sách “Khoảnh khắc và mãi mãi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) tuyển tập 20 chân dung nhà báo liệt sĩ và cuối năm 2021, ông tiếp tục xuất bản cuốn sách “Dáng đứng dưới tầm bom” do Nhà xuất bản Nghệ An phát hành. Cuốn sách “Dáng đứng dưới tầm bom” là các bài viết về chân dung, tấm gương 33 nhà báo liệt sĩ như một nén nhang tưởng niệm các đồng nghiệp đã hy sinh.
Qua những ngày tháng lặn lội đi khắp các nghĩa trang vừa tìm mộ cha, vừa tìm mộ đồng đội đã để lại trong ông những cung bậc cảm xúc khi chứng kiến những tấm gương anh dũng hy sinh vì nền độc lập nước nhà. Và lòng ông quặn thắt, xót xa mỗi khi đứng trước những tấm bia mộ khắc dòng chữ “Liệt sĩ vô danh”.
 |
| Nhà báo Trần Văn Hiền bên tấm bia khắc bài thơ "Xin đừng gọi anh là liệt sĩ vô danh" đặt tại Nghĩa trang Liệt sĩ Việt - Lào, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Ảnh nhân vật cung cấp |
Các anh sinh ra đều có tên, có tuổi, có quê quán, lớn lên, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, không tiếc máu xương để bảo vệ nền độc lập dân tộc rồi hy sinh, vậy tại sao lại gọi các anh là “Liệt sĩ vô danh?”. Câu hỏi luôn day dứt trong lòng ông và là nỗi niềm chung của nhiều người dân Việt Nam.
Nhà báo Trần Văn Hiền kể lại với niềm xúc động: “Trong một lần đi công tác ở huyện Anh Sơn (Nghệ An), đúng vào dịp ngày thương binh, liệt sĩ, tôi vào Nghĩa trang Liệt sĩ Việt – Lào. Lòng như nghẹn lại trước những ngôi mộ chỉ có vỏn vẹn 4 từ: “Liệt sĩ vô danh”. Trong trầm mặc khói hương, một tứ thơ chợt đến, và ngay đêm hôm ấy, tôi viết một mạch xong bài thơ mang tựa đề: “Xin đừng gọi Anh là liệt sĩ vô danh”.
Bài thơ đã làm xúc động hàng triệu con tim người Việt. Năm 1996, Chính phủ đã chỉ đạo khắc lại bia cho 70 vạn liệt sĩ chưa xác định được tên tuổi, quê quán. Các ngôi mộ mang tên “Liệt sĩ vô danh” được thay lại bằng tên “Mộ liệt sĩ chưa xác định được thông tin” hoặc "Liệt sĩ chưa biết tên". Cách gọi này phần nào đó đã an ủi, làm vơi đi ít nhiều nỗi đau mất mát.
Dù đã bước sang tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng nhà báo Văn Hiền vẫn luôn trăn trở về sự nghiệp báo chí với bao dự định. “Còn rất nhiều nhà báo đã hy sinh ở khắp các chiến trường vẫn chưa có đủ điều kiện để tìm, để viết, tôi chỉ mong mình có sức khỏe để tiếp tục hành trình tìm lại quê quán, nơi hy sinh của đồng nghiệp, viết tiếp về họ. Trong số hơn 500 nhà báo liệt sĩ trong cả nước và trên địa bàn các tỉnh Quân khu 4 đã có 16 nhà báo liệt sĩ nên tôi luôn trăn trở cố gắng có nhiều bài viết tri ân về đồng nghiệp của mình”, đó là lời tâm sự từ đáy lòng của ông khi chia tay chúng tôi.
Những ngày tháng bảy này, nhà báo Trần Văn Hiền lại lặn lội đến các nghĩa trang liệt sĩ vừa để thắp hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, vừa gom nhặt tư liệu để viết về những tấm gương anh dũng hy sinh vì Tổ quốc. Trong sâu thẳm tấm lòng của mình, nhà báo Trần Văn Hiền mong muốn tiếp tục viết nhiều hơn nữa về những đồng nghiệp đã hy sinh vừa tưởng nhớ, vừa tri ân công lao, sự hy sinh của họ đối với nền độc lập nước nhà.
Bài, ảnh: NGỌC THĂNG