QĐND Online - Thiếu tướng Nguyễn Ích, nguyên Phó chính ủy Binh chủng Công binh; trong những năm kháng chiến chống Mỹ, ông là người gắn bó với chiến sĩ ngày đêm bám trụ làm đường, làm cầu, phá bom, mở đường cho từng đoàn xe ra trận. Câu chuyện làm ngầm trên bến Phương Thúy nơi đầu nguồn Sông Thạch Hãn, Quảng Trị năm 1972 là một kỷ niệm khó quên trong lòng vị tướng.
Thiếu tướng Nguyễn Ích kể: Năm 1972, tôi mang cấp hàm Thượng tá là Phó chính ủy Binh chủng Công binh đang có mặt tại Mặt trận Quảng Trị để thực hiện nhiệm vụ. Vào đêm 23-4-1972, Công binh chúng tôi tổ chức vượt sông Thạch Hãn trên bến Phương Thúy, sử dụng xe lội nước PTS đưa được bộ binh qua sông, nhưng từ đêm 24 trở đi là bị tắc liên tục. Từ Sở chỉ huy Mặt trận, chúng tôi nhận được những thông tin về hy sinh, tổn thất: Xe bị đánh bom, phà bị đắm, lúc thì B-52 đánh vào bến và lòng sông, phà bị mắc cạn… số thương vong ngày càng nhiều…
 |
Thiếu tướng Nguyễn Ích.
|
Tối 30-4, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận tổ chức cuộc họp bất thường. Anh Nguyễn Văn Nhạn, Chủ nhiệm Công binh mặt trận; anh Phạm Cương, Phó tư lệnh Công binh và tôi được triệu tập. Sau khi nghe anh Nhạn báo cáo diễn biến tình hình vượt sông trong hơn một tuần qua, Bộ Tư lệnh đã quyết định cử đồng chí Hiểu -Tham mưu trưởng cùng đồng chí Nhạn, xuống trực tiếp chỉ huy vượt sông, tôi cũng được cử xuống bến để tham gia chỉ đạo.
Kết luận Hội nghị, đồng chí Tư lệnh Mặt trận yêu cầu Công binh phát biểu. Tôi thay mặt lực lượng Công binh xin hứa: Dù gian khổ, hy sinh thế nào, chúng tôi cũng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Khi ra về, đồng chí Lê Trọng Tấn và đồng chí Lê Quang Đạo đã bắt tay và chúc chúng tôi thành công. Anh Đạo nói thêm: Tối mai anh Nhạn đi trước, anh Ích ở lại thu xếp công việc xong sẽ xuống sau một ngày. Hai người chỉ huy cũng không nên đi cùng một lúc.
Chiều ngày 2-5, tôi có mặt tại thực địa. Gặp tôi, anh Nhạn vừa bắt tay vừa nói: Hay quá, ông đã vào, tình hình gay go lắm ông ạ. Ghép phà mấy đêm liền nhưng không thành công. Vào đây mới thấy hết được cái khó khăn của anh em. Sông thì hẹp, B-52 rải thảm dọc sông, có khoang thuyền nào ở dưới nước không chìm thì cũng bị hỏng. Phản lực nó đánh phá, pháo biển nó kích, B-52 nó rải thảm, nếu cứ kéo dài tình trạng như thế này sẽ hết phương tiện. Anh Nhạn, anh Hiểu và tôi cùng nhau bàn bạc, thống nhất phương án làm đường ngầm, có ngầm thì mới trụ được với bom đạn địch và quyết định vẫn bám trụ ở bến Phương Thúy. Cái ngặt nhất là lấy đâu ra vật liệu. Với con sông rộng khoảng 100m, tính ra làm một đường ngầm phải hết bốn, năm trăm khối đá. Lấy đá ở đâu? Xe đâu mà vận chuyển?
Nhưng rồi cái khó ló cái khôn. Anh em đã đề ra phương án làm ngầm bằng vật liệu cát sỏi lấy tại chỗ. Tận dụng bao cát của địch, nhồi cát sỏi đặt xuống lòng sông. Với những nơi nước chảy mạnh thì cho bao cát vào trong rọ sắt liên kết chặt với nhau để chống trôi. Phương án được thông qua, dự kiến phải mất bốn ngày đêm để chuẩn bị và hai đến ba đêm mới có thể xong.
Qua bốn ngày đêm chuẩn bị vật liệu, hơn ba trăm anh em lặn lội vào các vị trí của của địch, từ Phượng Hoàng, Ái Tử sang đến Đá Đứng, động Ông Do để sục tìm bao cát, phên sắt đưa về. Khi bắt tay vào làm ngầm, anh em chia làm nhiều bộ phận rải ra ở hai bên bờ sông. Anh em vừa làm vừa rút kinh nghiệm, nên năng suất cũng tăng dần. Gần sáng ra về, anh nào cũng ướt như chuột lột, quần áo không đủ để thay, cứ thế chui vào hầm mà ngủ.
Qua đêm đầu đã nhìn thấy triển vọng nên anh em đã vui vẻ và tin tưởng hơn. Đêm thứ hai ra đến bến đã người nào việc nấy, riêng bộ phận làm ngầm có sáng kiến cởi hết quần áo đội lên đầu, cán bộ cũng như chiến sĩ, cứ trần như nhộng mà lên bờ, xuống nước. Mỗi lần pháo sáng địch thả trên sông, anh em tránh vào một chỗ nhìn nhau cười. Bắt đầu làm từ hai bờ nối lại, càng ra đến giữa sông càng khó, nước sâu hơn và chảy xiết, tiến độ trở nên chậm chạp, phải làm đêm thứ ba, trong đêm này, việc quan trọng nhất là hàn khẩu. Dòng sông càng bị thu hẹp thì nước càng chảy mạnh. Bao cát xếp trong rọ sắt đưa xuống cũng bị cuốn trôi, sức người không cản lại được. Sau đó anh em phải lấy khoang thuyền hỏng cho bao cát vào trong đưa vào vị trí cố định, rồi dùng rọ xếp đầy bao cát lăn xuống, khoảng 4 giờ sáng thì mọi công việc hoàn tất.
Ngầm làm xong chưa kịp kiểm tra thì xảy ra một sự cố. Một chiếc ô tô của Sư đoàn 304 thấy thông ngầm liền tranh thủ vút sang. Khi đến giữa ngầm bị dây thép cuốn vào trục, vào cầu, xe càng rú máy càng bị lún sâu rồi chết hẳn. Trời sáng rồi, nếu dùng bộc phá đánh thì hỏng ngầm, mà xác xe nằm đó cũng không ổn. Cuối cùng phải ngụy trang lại rồi rút quân.
Hôm đó lẽ ra là một ngày vui, lại hóa ra là một ngày lo âu. Mỗi lần chiếc OV10 quay vòng sà xuống thấp, hoặc nó ném một quả đạn khói là mọi người cứ thót tim lại, chỉ lo ngầm bị lộ. Mấy anh em tôi suốt ngày ngồi nhìn trời và xem đồng hồ. Thời gian về chiều, nỗi lo cũng vơi dần, khi chiếc OV10 cuối cùng bay khuất vào dãy núi phía Nam. Tối hôm ấy chúng tôi cho chặn ngay ba-ri-e ở hai đầu bến, dùng kéo cắt hết dây thép ở gầm xe, và cho xe lội nước kéo xe ô tô lên bờ. Từ kinh nghiệm của chiếc xe chết máy, anh em kiểm tra lại mặt ngầm, dùng xe lội nước đầm, nén nhiều lần, bố trí máy húc để làm xe cứu kéo ở đầu bến, cho xe chạy thử, rồi cho thông ngầm. Từng đoàn xe được lệnh đi qua đảm bảo êm thuận và tốc độ khá nhanh. Đêm đó chúng tôi về sớm điện báo về Sở chỉ huy Mặt trận: Đường ngầm đã thông, xe đã qua, đảm bảo một đêm từ 100 đến 200 xe qua sông. Vài dòng điện báo cáo vắn tắt nhưng đó là công lao, mồ hôi xương máu của biết bao anh em. Những ngày tiếp theo, anh em thường xuyên kiểm tra và tu bổ tôn tạo mặt ngầm. Mỗi đêm, khi chiếc xe cuối cùng qua sông, là anh em lại xóa hết dấu vết, cho xe chạy tạo vết giả ở bến giả, vì thế địch không phát hiện ra được bến chính.
Bài, ảnh: TRỊNH DŨNG