Dòng tâm linh đang cuộn chảy

Cũng là may mắn vào một tối cuối tháng 7-2009, chúng tôi gặp được nhau. Số là mấy ngày đó, Báo Quân đội nhân dân chúng tôi được Tổng cục Chính trị giao cho chủ trì cùng một số cơ quan tổ chức cuộc giao lưu Ký ức chiến tranh và khát vọng hòa bình, cũng như tham gia vào các hoạt động khác. Có một chuỗi hoạt động trong dịp này, thế là tôi được trở lại Quảng Trị và gặp được anh vì dịp này hằng năm anh thường về đây.

Bên chén rượu suông, chúng tôi nói với nhau đủ chuyện. Đầu tiên là về bài thơ nổi tiếng của anh.

Anh kể: "Mấy câu thơ đó ra đời vào chiều ngày 27-7-1987. Tôi thường làm thơ với câu chữ chợt đến trong đầu, nhớ nhập tâm rồi sau này tiện lúc nào thì viết thành chữ vào nhật ký, sổ tay. Hai câu ấy cũng theo cách viết như vậy. Hôm đó thả hoa xong, tôi một mình ngồi lặng lẽ bên bờ sông Thạch Hãn, chợt thấy những chiếc thuyền ngược dòng lên chợ Quảng Trị. Nhìn những mái chèo hối hả khuấy tung bọt nước, chạnh lòng nghĩ đến đồng đội vẫn còn gửi thân xác nơi đáy sông mà xót xa. Cứ vậy, từng lời bật ra thành câu chữ:

Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ

Đáy sông còn đó bạn tôi nằm

Tan chợ chiều xuôi đò có vội

Xin, xin đừng khuấy đục dòng trong".

Chuẩn bị Đại lễ tưởng niệm anh linh các anh hùng, liệt sĩ.

Mọi chuyện tưởng chừng dừng lại đó, cũng như rất nhiều câu thơ khác anh đã làm ra. Nhưng sau đó chừng 3 năm, trong một dịp gặp nhau, anh đọc mấy câu thơ đó cho mấy nhà văn bạn anh. Họ cùng bàn luận từng câu chữ, anh cũng có dịp trau chuốt và quyết định sửa lại hai câu cuối, thay từ “xin” ở giữa câu đầu thành từ “ơi” là thán từ gọi đò theo phương ngữ Quảng Trị. Thế là hoàn chỉnh với các câu:

Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ

Đáy sông còn đó bạn tôi nằm

Có tuổi hai mươi thành sóng nước

Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm.

Những câu thơ đó được in trên Tạp chí Khoa học-công nghệ tỉnh Khánh Hòa vào dịp 27-7-1990. Ngay cái tên Lời gọi bên sông cũng là một giai thoại. Lúc đầu nó không có tựa đề, khi người biên tập tạp chí đem bài thơ đi in, thấy thiếu liền gọi điện hỏi, anh giải thích đó chỉ là lời người bên sông... Không ngờ người biên tập cho in luôn tựa bài thơ là “Lời gọi bên sông”.

Tôi hỏi:

- Chúng tôi thấy có những dị bản khác về bài thơ, cả khi đọc và ghi trên văn bản, giấy tờ, anh có băn khoăn gì không?

Anh trả lời với vẻ suy tư:

- Có lẽ bài thơ là tiếng lòng chung cho mọi người nên người này nhớ một hai câu, người khác thuộc trọn bài nhưng hầu như nếu so sánh thì vẫn có vài từ khác nhau. Như vậy, trừ nguyên bản ban đầu và “nguyên bản” thứ hai do tác giả sửa thì các dị bản truyền miệng trong dân gian không khác nhau bao nhiêu. Tuy nhiên, cho dù đọc với chính bản hoặc bất cứ dị bản nào thì đều cảm nhận đó là tiếng lòng nguyên vẹn của tác giả gửi gắm vào những dòng thơ xót xa hòa lẫn máu và nước mắt thấm đẫm tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Bởi vậy, có lẽ không nên đặt các bản thơ lên bàn cân xăm xoi, chẻ từ, chiết nghĩa làm gì. Tôi tuy là tác giả nhưng vẫn coi bài thơ là tiếng lòng của mọi người.

Tôi hiểu tấm lòng của anh, nhưng đã là một tác phẩm được công bố, thì việc sử dụng nhất là trong các văn bản, khắc chữ trên các vật liệu nơi công cộng phải bảo đảm quyền tác giả. Vậy thì nên hỏi ý kiến tác giả và cần khắc đúng cả bài thơ, với tên tác giả đàng hoàng. Đó cũng là cách thể hiện sự trân trọng đối với những người đã khuất và làm việc thiện bằng cả văn hóa tâm linh chứ không chỉ đơn thuần với những đồng tiền trần tục.

Tôi hỏi theo suy nghĩ chợt hiện lên:

- Nếu tìm lại trong những câu thơ của anh bao năm qua, sẽ còn những câu thơ nào nữa sẽ đi vào lòng người như vậy?

Anh không trả lời thẳng vào câu hỏi mà kể: Cái năm 1972 ấy, khi vượt tuyến sang bên này thì gặp một em bé. Trong câu chuyện vội vàng, em hỏi về cuộc sống của chiến sĩ giải phóng, anh không có đủ thời gian để giải thích, lấy tờ giấy viết vội câu thơ:

Một khẩu súng giữ hai trời Nam Bắc

Một dấu chân in mòn đất hai miền.

Thế rồi vội vã cùng đơn vị hành quân. Bẵng đi, đến tháng 7-2007, gặp lại cô bé ngày xưa (giờ là Hội trưởng Hội phụ nữ phường 1, thị xã Quảng Trị). Chị đưa lại mảnh giấy ghi câu thơ đó của anh 35 năm trước.

Anh nói rằng khi biết chuyện, một số anh em đồng đội muốn ghi lại câu thơ đó vào một phiến đá, đặt tại địa điểm thích hợp trong dịp kỷ niệm 55 năm khu phi quân sự sắp tới.

Với anh, chuyện gì thì cũng trở lại với các đồng đội đã ngã xuống. Anh kể với chúng tôi những câu chuyện buồn, day dứt anh suốt bao năm qua. Đó là những đồng đội của anh ngã xuống, người nằm dưới các dòng sông, người trên các điểm cao song do bom đạn, lũ cuốn mà chưa tìm thấy thi thể. Có những người khi mất đi, anh vuốt mắt họ và hứa sau chiến tranh sẽ đưa về quê hương, mà đến nay chưa tìm lại được. Chưa đưa được anh em về thì mình phải đến với anh em.

Đến với anh em trở thành mệnh lệnh không lời với Lê Bá Dương. Anh suy nghĩ và quyết định sẽ làm hai việc: Tổ chức cho các cựu chiến binh thăm lại chiến trường và đưa đất, nước từ quê hương đến với anh em.

Cuộc trở lại chiến trường xưa của các cựu chiến binh đơn vị anh có tên "Ấm rừng đồng đội”. Hơn 250 cựu chiến binh tự nguyện mang mặc trang phục quân giải phóng, đủ tăng võng trở lại chiến trường, nơi họ đã từng chiến đấu và chia tay mãi mãi nhiều đồng đội. Họ ở lại đó một đêm. Những câu chuyện kể lại trong đêm lửa trại của cuộc hành quân đặc biệt đó là hy vọng vong linh anh em đã nằm xuống sẽ thấy ấm áp. Sau đó, các anh tỏa về các địa danh mà đơn vị từng ở. Đó là ở xã Gio An, huyện Gio Linh; xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong; phường Đông Thanh, thị xã Đông Hà. Các hộ gia đình nhân dân mừng đón các anh như ngày nào. Bà con mong muốn năm nào cũng sẽ được đón các anh trở lại.

Các vị trong đoàn ngoại giao thắp hương tưởng niệm liệt sĩ.

Đưa đất và nước quê hương đến với các anh là việc làm có tính tượng trưng hơn, nhất là trong những ngày sôi động và bận rộn kỷ niệm 62 năm ngày Thương binh-Liệt sĩ năm nay. Anh chỉ có thể tổ chức lấy đất và nước ở một số điểm. Đó là đất Hoàng thành Thăng Long, nước Hồ Hoàn kiếm và sông Hồng ở Hà Nội; đất ở núi Chung, Nam Đàn và nước sông Lam, Nghệ An; đất thép Củ Chi và 18 thôn Vườn Trầu Hóc Môn-Bà Điểm, Thành phố Hồ Chí Minh. Đất đó được trộn với đất thành cổ Quảng Trị, nước trộn với nước sông Thạch Hãn. Đất hội tụ linh khí của cả nước, là đất thiêng được đưa vào làm nền móng cho công trình bến thả hoa tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hy sinh trên sông Thạch Hãn ở bờ bắc sông Thạch Hãn, trong lễ động thổ vào 5 giờ sáng ngày 27-7-2009. Công trình này đối diện với bến thả hoa bờ nam, được khánh thành vào đêm hôm trước.

Công trình bến thả hoa bờ bắc có tổng vốn đầu tư hơn 10 tỷ đồng, bằng nguồn tài trợ của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, được xây dựng tại bến Vượt, bờ bắc sông Thạch Hãn, thuộc phường An Đôn, thị xã Quảng Trị.

Đây là một trong 7 hạng mục quan trọng trong cụm tưởng niệm gồm: Nhà hành lễ, tượng đài tưởng niệm, bến thả hoa... sẽ được tiếp tục triển khai xây dựng trong thời gian tới. Theo Ban tổ chức thì công trình bến thả hoa dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm 2009. 

- Tôi mong muốn mỗi dòng sông là một dòng chảy tâm linh. Mọi người, bằng sự gom góp công sức, tiền của và tình cảm của mình theo khả năng, bằng mọi hình thức tri ân người đã khuất, chăm lo người còn sống theo đạo lý uống nước nhớ nguồn-anh nói với đầy vẻ khát khao.

Trong Đại lễ tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ tại Nghĩa trang đường 9, có đủ các đoàn ngoại giao, Việt kiều và bà con khắp mọi miền đất nước. Đêm ấy, cả Nghĩa trang rực ánh sáng của hơn vạn ngọn nến. Mọi người có mặt trong Đại lễ tưởng niệm tỏa lên các khu mộ để thắp nến, thắp hương. Người trong cả nước cùng người nước ngoài, con em Việt kiều và bà con Quảng Trị chia sẻ những nắm hương, ngọn lửa để giữ cho ngôi mộ nào cũng sáng. Trời cao vời vợi nhưng gió mạnh, gió từ đại ngàn thổi về, từ biển vào, giữ ngọn lửa liên tục trên các nấm mộ không dễ. Thế nhưng điều đó đã làm được. Người tách riêng, lại có những người bạn đi cùng nhau, rồi hai mẹ con, anh chị em đến từng ngôi mộ, đi đi lại lại để giữ lửa. Một nhóm trẻ em đốt nắm hương to để phát cho nhau và cho ai cần đến.

Bà con coi Quảng Trị là nơi hành hương, cầu mong hương hồn các anh hùng, liệt sĩ sẽ siêu thoát, bay lên cõi vĩnh hằng, hòa vào “hào khí anh linh” của đất nước, phù hộ cho đất nước và gia đình mình. Trong cuộc lễ lớn đó, tôi chú ý đến hai mẹ con có thái độ hết sức chăm chú và thành tâm. Hỏi thì biết chị là Trương Thị Thúy Vân, giáo viên Trường trẻ em khuyết tật Quảng Trị và con là Trương Đình Chí, 3 tuổi. Chị cho biết, chồng chị là anh Trương Đình Hoàng, Giáo viên Trường cao đẳng sư phạm Quảng Trị. Nhà anh chị ở ngay thị xã Quảng Trị, có người cô là liệt sĩ khi không kịp lập gia đình. Chị và con trai rất hay đi dự các lễ tưởng niệm liệt sĩ.

Tôi hỏi chuyện chị vì tình cờ nghe hai mẹ con cùng khấn: Cầu mong các cô chú bộ đội phù hộ con hay ăn, chóng lớn để đi bộ đội.

Đã có một dòng tâm linh cuộn chảy, không chỉ trên những dòng sông mà ở bất cứ đâu trên mảnh đất thiêng này. Dòng chảy đó truyền từ đồng đội của các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống trên mảnh đất này đến thế hệ con và cháu của họ.

Bài và ảnh: VIỆT ÂN
Ký ức Quảng Trị-Lửa và hoa (Kỳ 1)
Ký ức Quảng Trị-Lửa và hoa (Kỳ 2)