QĐND - Khi chúng tôi hỏi về một ngày làm việc đặc biệt hơn mọi ngày của 2 sĩ quan Việt Nam ở Nam Xu-đăng thì nhận được câu trả lời rằng “có nhiều ngày đặc biệt và diễn ra tương đối thường xuyên thành ra cũng không còn đặc biệt nữa".

Yên tâm với sự hiện diện của mũ nồi xanh

Địa bàn công tác của Trung tá Mạc Đức Trọng theo lời anh kể thì thấy có vẻ phức tạp và tình hình an ninh là căng thẳng. Căn cứ LHQ cấp tỉnh ở Mê-lút mà Trung tá Trọng đang làm nhiệm vụ đảm trách địa bàn bao gồm tỉnh Ma-ban nơi có 4 trại lớn với 150.000 người tị nạn chạy loạn từ bang sông Nin Xanh (Bắc Xu-đăng) và khu vực Pa-lô-ích - nơi có các cơ sở khai thác dầu khí còn hoạt động. Do Mê-lút có các giếng dầu đang khai thác, nên nơi đây trở thành một địa bàn thường xuyên xảy ra giao tranh giữa lực lượng chính phủ và phe đối lập. Kinh tế của Nam Xu-đăng hiện nay phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn thu từ bán dầu mỏ. Vì vậy, nếu các giếng dầu ngừng hoạt động đồng nghĩa với việc chính phủ không còn ngân sách và có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Đây là lý do mà quân đội chính phủ điều các sư đoàn mạnh về đây để bảo vệ trước việc phe đối lập cũng muốn chiếm bằng được các giếng dầu.

Trung tá Mạc Đức Trọng cùng các đồng sự nghỉ ăn trưa trong hành trình vận tải và bảo vệ lương thực cứu trợ của WFP trên sông Nin. Ảnh: LÊ HÀ

Khi Trung tá Mạc Đức Trọng vừa đến địa bàn này vào giữa tháng 8-2014, thì xảy ra vụ việc 5 nhân viên nhân đạo quốc tế (người địa phương) bị dân quân địa phương sát hại ở thị trấn Bun-di, thuộc tỉnh Ma-ban, cách Mê-lút 150km. Tình hình căng thẳng tới mức các tổ chức quốc tế như: UNHCR, WFP, ICRC, OXPHAM… buộc phải di tản khẩn cấp hầu hết các nhân viên. Số còn lại cố thủ trong văn phòng của họ và bị lực lượng dân quân bao vây bên ngoài. Các kho dự trữ lương thực, đồ dùng, nhu yếu phẩm bị cướp phá. Trước tình thế đó, LHQ triển khai chiến dịch bảo vệ khẩn cấp, điều động 1 đại đội bộ binh cơ giới Ấn Độ và 1 đại đội bộ binh của Ru-an-đa đến ứng cứu các tổ chức quốc tế, khôi phục hoạt động cứu trợ nhân đạo cho hàng trăm ngàn người tị nạn đã bị ngưng trệ. Khi lực lượng LHQ được triển khai, tình hình an ninh được khôi phục trở lại, dân địa phương an tâm hơn khi có sự hiện diện của lực lượng mũ nồi xanh, các lực lượng dân quân tự phát địa phương không còn manh động. Chiến dịch này của LHQ được kéo dài đến nay, nên Trung tá Mạc Đức Trọng và các sĩ quan liên lạc khác của UNMISS phải thay phiên nhau cứ 1 tháng thì 2 tuần ở Mê-lút, 2 tuần ở Ma-ban.

Đàm phán với phiến quân

Nhiệm vụ sẽ căng hơn khi các sĩ quan liên lạc phải vào các vùng đang có giao tranh hoặc đang có tranh chấp giữa quân đội chính phủ và quân đối lập. Hoặc những ngày họ phải gặp và đàm phán với chỉ huy các phe phái tham chiến để đảm bảo cho hàng hóa của LHQ hoặc lương thực cứu trợ nhân đạo quốc tế được đi qua khu vực họ kiểm soát.

Trung tá Trần Nam Ngạn cho hay, trong những lần đi công tác thì việc hộ tống sà lan vận tải trên sông Nin là nhiều thử thách nhất. Quãng đường phải đi khoảng 650km mà thường phải đi mất 2 đến 3 tuần mới tới nơi. Trong suốt hành trình thường phải đàm phán với các trạm kiểm soát để được đi qua và đây chính là phần việc của sĩ quan liên lạc. Một phần ba quãng đường phải đi qua khu vực nằm dưới sự kiểm soát của phe đối lập. Ở đoạn cuối của quãng đường gần Tông-ga có điểm cao Đóp-rê là nơi quân chính phủ và đối lập vẫn đang giao tranh. Mỗi lần đi qua đây, đoàn sà lan thường phải dừng lại chờ cho hết nổ súng thì vượt qua. Trong trường hợp đang đi qua mà đột nhiên có nổ súng, thường thì các lái tàu là người làm thuê cho nhà thầu sẽ bỏ vị trí để đi trốn, lúc đó, lực lượng bảo vệ và sĩ quan liên lạc phải lập tức lái sà lan vượt qua điểm giao tranh.

Trung tá Mạc Đức Trọng nhớ lại, có lần, khi anh cùng các nhân viên khác của phái bộ hộ tống sà lan của LHQ qua Trạm kiểm soát Phang-gắc do quân chính phủ kiểm soát, lực lượng này đã dùng tàu cao tốc đuổi theo và bắt sà lan của UNMISS cập bờ. Chỉ huy đơn vị yêu cầu phải có giấy phép an ninh của Tư lệnh Quân khu mới cho sà lan của UNMISS đi qua. Về nguyên tắc, UNMISS có quyền miễn trừ và tự do đi lại trên toàn lãnh thổ Nam Xu-đăng mà không cần giấy phép nào cả, nhưng nguyên tắc này trên thực tế thường không được các bên tuân thủ. Sau hơn 3 tiếng đàm phán, chỉ huy của đơn vị này vẫn quyết rằng, đây là vùng chiến sự, trừ phi có lệnh của Tư lệnh Quân khu, còn không đoàn thuyền của LHQ phải ở lại cảng (không được đi mà cũng không được về). Nhưng cuối cùng, sau rất nhiều nỗ lực, Trung tá Mạc Đức Trọng với vai trò sĩ quan liên lạc cấp cao nhất và một sĩ quan liên lạc cấp dưới đã thuyết phục thành công và sà lan của UNMISS được phép đi qua trạm kiểm soát của quân đội chính phủ.

Nhưng khó khăn chưa hết. Ngày hôm sau đến trạm kiểm soát của phe đối lập, sà lan lại bị chặn và một số nhân viên của UNMISS trên sà lan được chỉ huy của lực lượng này “mời” vào trạm làm việc. Hai sĩ quan liên lạc (bao gồm Trung tá Mạc Đức Trọng) cùng với 5 lính mũ nồi xanh lên bờ. Mọi người hơi bất ngờ là cách nói chuyện và giao tiếp của quân đối lập khá lịch sự và thân thiện. Nhưng cuối cùng họ đưa ra một danh sách những thứ yêu cầu đoàn vận tải của LHQ cung cấp như: 2000 lít dầu đi-ê-den, 100 lít dầu máy, phụ tùng xe tải và xe Land Cruiser, 2 thùng suất ăn cá nhân… Họ còn nói thẳng, đây không phải là “cướp” mà là “xin”. Phải mất tới 2 ngày dàn xếp, cả đoàn mới đi qua được trạm kiểm soát này và tới đích an toàn.

Trung tá Mạc Đức Trọng cho biết: “Nhìn chung, ở các tình huống như vậy, cách xử lý của sĩ quan liên lạc sẽ quyết định đến sự thành công hay thất bại của nhiệm vụ. Vũ khí duy nhất của sĩ quan liên lạc lúc đó chỉ có thể là sự khéo léo trong giao thiệp và đàm phán. Vũ khí nóng (súng) và lực lượng bảo vệ của LHQ không thể giải quyết được vấn đề nếu cứng nhắc theo Luật Tác chiến: “LHQ được phép tự vệ và sử dụng vũ lực khi nhận thấy có mối đe dọa”.

“Phần thưởng” tuyệt vời sau chuyến hành trình dài đầy thách thức này đối với Trung tá Mạc Đức Trọng đó là khi tới Bor, đích đến cuối cùng của hành trình, cũng là nơi Trung tá Trần Nam Ngạn đang đóng quân, được anh Ngạn ra đón và tối hôm đó chiêu đãi món thịt linh dương nướng và bia. Đây là những thực phẩm tươi ngon không phải lúc nào anh cũng được thưởng thức ở nơi đóng quân cách đó cả nghìn ki-lô-mét. Và tuyệt nhất đối với anh có lẽ là được thưởng thức tô phở... linh dương thơm phức được anh Ngạn nấu cho bằng bánh đa khô mang từ Việt Nam sang.

MỸ HẠNH

Kỳ 3: Niềm tự hào Việt Nam

 

Kỳ 1: Những “thuyết khách” ở Nam Xu-đăng