Song song với việc triển khai cánh quân trên mặt trận Long Châu, một cánh quân khác cũng chuẩn bị hành quân theo hướng Điền Quế và Thập Vạn Đại Sơn.
Mặt trận Điền Quế, một khu vực rộng lớn với địa hình hiểm trở, núi non trùng điệp, ngăn chia ranh giới hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây (Trung Quốc). Bộ tư lệnh Liên Khu 1 được lệnh của Bộ Tổng tư lệnh tập trung một số đơn vị đang tham gia Chiến dịch Đông Bắc, thành lập lực lượng đặc biệt, gọi là Chi đội 6 sang phối hợp chiến đấu với Giải phóng quân Trung Quốc.
Hai đơn vị chiến đấu được biên chế vào Chi đội 6 gồm: Tiểu đoàn 426 thuộc Trung đoàn 59 và Tiểu đoàn 1 (còn gọi là Tiểu đoàn Minh Hổ), thuộc Trung đoàn độc lập Hải Ninh và Đại đội 148 bổ sung cho Tiểu đoàn 426.
Một bộ phận cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của mặt trận Duyên Hải - Đông Bắc, được bổ sung thêm các tổ công binh, quân y, quân dược, chuyển thành cơ quan trực thuộc Bộ tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn.
Đồng chí Lê Quảng Ba, Chỉ huy trưởng mặt trận Đông Bắc được cử làm Tư lệnh, đồng chí Trần Minh Giang, đại diện Giải phóng quân Biên khu Việt Quế, làm Chính ủy Bộ Tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn. Đồng chí Nam Long, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 59 được cử làm chi đội trưởng. Đồng chí Hoàng Bình, cán bộ phía bạn làm chi đội phó. Đồng chí Đỗ Trình, Chính trị viên Trung đoàn 59, làm chính trị viên chi đội, kiêm chính trị hiệp trợ viên Bộ tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn.
 |
Các đồng chí trong tổ quân dược Trung đoàn 59 tham gia Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn. Hàng trước: Bà Phùng Thị Sâm; Nguyễn Thị Anh Tân, Thạch Thị Trinh. Hàng sau: Ông Đặng Hanh Phức; Phó Bá Long; đồng chí Hùng. (Ảnh chụp tại Trung Quốc năm 1949). Ảnh tư liệu
|
Tại hướng này, bộ đội ta hành quân vô cùng vất vả, đường xá hiểm trở, xa xôi, nhiều đèo cao vực sâu, khí hậu miền sơn cước vô cùng khắc nghiệt. Thêm vào đó, với đặc thù rừng rậm, nhiều hang động, Thập Vạn Đại Sơn còn nổi tiếng xa gần bởi sự hỗn loạn của các nhóm "cẩu tặc" (thổ phỉ sống trong các vùng núi Thập Vạn Đại Sơn). Những khó khăn ấy dồn lại khiến bộ đội ta phải đi mất gần một tháng xuyên rừng, băng núi trong điều kiện nắng cháy và mưa rừng để tới nơi tác chiến.
Một ngày hè năm 2009, tại Hà Nội, tôi đã được gặp các nhân chứng - cựu chiến binh Thập Vạn Đại Sơn năm xưa như bà Phùng Thị Sâm, nguyên dược tá Trung đoàn 59; ông Phạm Quý Tân, nguyên chiến sĩ liên lạc Tiểu đoàn 426; ông Trịnh Phúc Nguyên, nguyên trưởng ban quân y Trung đoàn 59; ông Biên Cương, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 426; Phạm Quý, nguyên Chính trị viên Đại đội 1486 và cả nhạc sĩ Trọng Loan… Họ đã kể lại cảnh tượng đoàn quân băng đèo, lội suối, lên núi, xuống vực khó khăn, gian khổ để qua được các vùng địch tạm chiếm, qua được dãy Thập Vạn Đại Sơn tới chiến đấu và giải phóng các vùng đất đang bị Quốc dân đảng chiếm giữ.
Trước khi tham gia các trận đánh ác liệt với quân Quốc dân đảng, lực lượng của ta đã trải qua cuộc hành quân trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, những cơn đói lả người, đói vàng mắt.
Nỗi gian khó ấy đã được bà Sâm ghi lại trong cuốn hồi kí “Những người con gái Hà Nội, một thời để nhớ”. Trong chương thứ ba “Theo chân bộ đội vượt Thập Vạn Đại Sơn Trung Quốc năm 1949”, bà Sâm đã mô tả chi tiết quá trình các chiến sĩ ta vượt dãy Thập Vạn Đại Sơn, về cuộc sống của những người lính trong đó có tổ dược của bà khi sang giúp Trung Quốc.
… Ngay sau khi nhận lệnh công tác, biết sẽ đi công tác Trung Quốc, có vinh dự giúp nhân dân bạn đánh đuổi quân Tưởng Giới Thạch, hòa chung khí thế với các bộ phận khác trong đoàn quân, tổ quân dược 10 người ai cũng phấn khởi, vinh dự tự hào, tất cả cùng bắt tay vào các công việc chuẩn bị thuốc men để lên đường. Ngày 2-6-1949, bộ đội ta xuất phát từ làng Bằng (Bắc Giang). Mặc dù gian nan vất vả ngay từ những ngày đầu tiên, tinh thần lạc quan, yêu đời của cánh lính trẻ cùng sự xuất hiện những bông hoa của núi rừng là các cô gái của tổ dược và hai y tá của ban quân y như thổi luồng sinh khí tươi mát cho cả đoàn quân. Lúc thì tấu nhạc, lúc thì những tiếng hát theo các ca khúc của nhạc sĩ Trọng Loan lại vang lên… Sự vô tư trong sáng của những người lính đã giúp xua bớt mệt mỏi, vất vả và cái đói trên đường hành quân. Xua đi nỗi nhớ nhà, thôi thúc tinh thần chiến đấu của chiến sĩ vì nghĩa vụ quốc tế cao cả.
“Khi nơi vang tiếng súng chiến thắng quân thù hung ác, ta hát câu ca lên đường ra biên cương… Hát vang lên chàng trai hùng, dưới muôn cờ sao vàng, khúc ca trường chinh rằng: Một đoàn người Việt Nam vượt tầng biên cương… vì loài người xây đắp tự do hòa bình” (Bài ca lên đường viễn chính - Nhạc sĩ Trọng Loan sáng tác trước khi Tiểu đoàn 426 lên đường sang giúp nước bạn Trung Quốc).
Từ làng Bằng (Bắc Giang), đoàn qua Hữu Lũng (Lạng Sơn), tới Đồng Mỏ, rẽ đi Pắc Xàn, vượt đường số 4, đến bản Tre ở gần biên giới Việt - Trung. Từ đây bộ đội phải đi tắt rừng, trèo đèo lội suối, vượt qua nhiều ngọn núi cao dưới cái nắng thiêu đốt giữa mùa hè. Khi tới gần các đồn bốt của Pháp, bộ đội phải chuyển chiến thuật, đêm đi, ngày nghỉ để tránh sự phát hiện của giặc Pháp. Tới khu vực biên giới, chuẩn bị sang nước bạn, nhân dân tại Chi Lăng khi biết có bộ đội rất vui mừng, nhiều người tới tiễn, mang theo bánh chưng và một số lương thực để tặng bộ đội.
Ngày bộ đội ta tới bản Chắt, tới đón đoàn có ông Trần Phát, Ủy viên khu Thập Vạn Đại Sơn. Đang từ đi đêm, nay chuyển sang đi ban ngày, được ngắm nhìn phong cảnh hùng vĩ miền biên giới, anh em trong đoàn đều phấn khởi, lòng vui phơi phới, xen lẫn tự hào là một trong những đoàn quân đầu tiên của Việt Nam đi làm nhiệm vụ quốc tế. Đồng chí Vũ Ngạn, y tá trưởng Tiểu đoàn 426 đã ứng khẩu sáng tác bài thơ “Đêm biên giới”, trong đó có đoạn:
“Đêm nay trên dải đất Trung Hoa
Đoàn quân Việt Nam đang vượt qua biên giới
Gió lồng lộng thổi lòng trai phấn khởi,
Đi ta đi phen này cho tới lúc thành công
Tiếng thông reo
Như ngàn vạn tiếng xung phong của đoàn quân quốc tế
Đồi bát ngát dưới trăng khuya
Ta mệt nhoài nhưng hồn vẫn say mê
Trước cảnh đẹp thần tiên bên xứ lạ…”
Sự lạc quan yêu đời của cánh lính trẻ tưởng đang ung dung như một lữ khách nhàn tản, nhưng trên thực tế thì không như vậy.
Trong những ngày luồn rừng vượt núi dưới cái nắng như đổ lửa, cái nóng rát lưng, cháy thịt, khiến mồ hôi vừa chảy ròng ròng rồi có thể khô lại ngay. Hết nắng lại là cái mưa như trút, nước mưa tràn trề, nhiều trận mưa kéo dài, bùn đất nhão nhoét, gió lớn thổi táp những cơn mưa nặng hạt vào da thịt người vốn đã tím tái bởi đói và mệt… Quần áo vì thế một ngày khô ướt đôi ba lần là chuyện rất bình thường. Nắng cháy, mưa rừng, địa hình hiểm trở khiến chặng đường như dài ra. Khi mưa, nước từ khắp núi rừng đổ về các con suối tạo thành các dòng lũ với sức mạnh ghê gớm, cản bước đoàn quân đi.
Trong kí ức của bà Sâm, hình ảnh con suối cạn phút chốc biến thành dòng lũ hung dữ vẫn còn nguyên vẹn. Bà kể: “Có khi đoàn quân hàng trăm người đang hành quân qua một con suối cạn, thì cơn mưa rừng bất ngờ ập xuống. Trong khi một nửa đoàn quân đã sang bên kia bờ suối, ở bên này một nửa đoàn quân đành ở lại vì con lũ dữ với nước đổ ào ào, cuốn trôi cây, bùn, đá… không ai dám lội sang. Mưa dai dẳng mãi không dứt, cơn mưa kéo dài cả ngày khiến bộ đội ta cứ ở hai bên bờ suối mà chờ nhau…”.
Mưa thì thừa nước, nhưng có khi chỉ vài tiếng sau, khi đang luồn sâu trong rừng hay khi trèo lên các đỉnh núi cao, bộ đội lại khổ sở vì không có nước để uống. Khổ nhất là những người chẳng may bị ốm dọc đường, hay người bị thương do các toán phỉ (dân địa phương gọi là cẩu tặc) ẩn nấp trong rừng, trong các hang động thi thoảng lại bắn tỉa khiến bộ đội bị thương vong. Những cơn đói, khát, đau đớn khiến nhiều đồng chí kiệt sức. Trong khó khăn, tình đồng chí, đồng đội lại được đề cao hơn bao giờ hết. Khi có một người ốm hay bị thương, đoàn lại cử bốn người khiêng, trang bị của họ lại được những người khác mang giúp.
Hơn hai tuần hành quân, ngày 17-6, bộ đội ta tới thôn Trình Chúc nằm ở chân dãy Thập Vạn Đại Sơn, thuộc Quảng Tây. Sáng 18-6, bộ đội bắt đầu vượt dãy Thập Vạn Đại Sơn, cao trên nghìn mét. Núi cao vời vợi, dốc sâu hun hút. Vách cao và vực sâu càng tạo cảm giác thăm thẳm. Người đi trên núi mà nhẹ lâng lâng. Điệp khúc núi cao, nắng cháy, mưa rừng… lại bắt đầu.
Cái nắng như thiêu, không khí khô kiệt như ngọn lửa đốt cháy mọi thứ. Cái nắng, cái nóng làm nước trong người như bốc hơi, khát cháy họng. Từng giọt nước được chắt chiu. Ai cũng phải dè sẻn, chỉ dám nhấp từng ngụm nhỏ chống khát và chống “bỏng” nơi cổ họng. Bà Sâm kể lại: “Sở dĩ nhiều chiến sĩ nam mệt mỏi hơn chị em chúng tôi vì chúng tôi cũng được ưu tiên hơn khi không phải mang nhiều đồ đạc và vũ khí. Trong khi đó, do phải vật lộn nhiều ngày trước đó với mưa rừng, nắng cháy dọc đường, nay đến các vách núi dựng đứng của dãy Thập Vạn Đại Sơn, một số chiến sĩ đã bị say nắng. Dưới cái nắng cái nóng ngột ngạt trên độ cao hàng nghìn mét. Các y tá đã phải lấy từng giọt nước quý giá vã lên người những chiến sĩ bị say nắng”.
Khó khăn mệt nhọc tạm qua đi khi mỗi lần lên tới đỉnh một ngọn núi cao, lòng người nhẹ lâng lâng, không khí mát dịu, gió thổi vi vu, xa xa con sông Ca Long như một vệt trắng xóa ngăn đôi hai địa danh Đông Hưng (Trung Quốc) với Móng Cái (Việt Nam) gợi nỗi nhớ nhà da diết…
Núi cao vời vợi
Càng leo càng thấy cao hơn
Tâm hồn cảm thấy lâng lâng
Gió rít từng hồi trên cao
Như muốn bốc hết cuộn vào mênh mông
Chặng đường trước:
Ba lô ướt sũng mưa ngàn
Đời đi biên giới vui tràn lòng anh
Chặng đường này:
Nắng như thiêu cháy rừng xanh
Như ai đổ lửa bước đường anh đi...
(Nhớ mãi khôn nguôi - Phùng Thị Sâm)
Lên được đỉnh núi đã khó khăn, lúc xuống lại càng đáng sợ. Những vách núi dựng đứng khiến việc xuống núi càng khó khăn hơn, rất nhiều đoạn núi các chiến sĩ trong đoàn đã phải xuống theo thừng được thả. Lại đi trong nắng gắt và mưa rừng. Quần áo cứ khô lại ướt. Đúng ba ngày hai đêm gian khổ đoàn quân mới vượt dãy Thập Vạn Đại Sơn.
Sẩm tối ngày 20-6-1949, bộ đội ta mới xuống đến chân núi bên phía Quảng Đông. Ngày 21-6-1949, sau gần một tháng hành quân gian khổ suốt từ làng Bằng (Lạng Giang) qua Hữu Lũng, Đồng Mỏ, Đèo Ý, Dèo Cò Hương, đèo Ái Quốc, suối Khuổi Long, suối Mí, Pắc Xàn, Nà Nan, bản Tre, bản Chắt (Chi Lăng), vượt biên giới đến địa phận hai huyện Thượng Tư, Tư Lạc, vượt dãy Thập Vạn Đại Sơn tới Pắc Lầu.
Quân Quốc dân đảng đóng tại Phù Lủng, gần Pắc Lầu, nghe tin bộ đội Việt Nam tới, vội vã tháo chạy. Ngày 24-6, quân ta tiến vào Phù Lủng. Tiếp đó, ngày 25-6, địch ở thị trấn Nà Số, cách Phù Lủng không xa cũng rút chạy về Nà Lường. Ngày hôm sau, bộ đội ta vào Nà Số, tại đây, Bộ Tư lệnh Thập Vạn Đại Sơn bàn kế hoạch tác chiến.
NGUYỄN HÒA
Kỳ 3: Dấu nghĩa tình
Kỳ 1: Giúp bạn như giúp mình