QĐND Online – Cuối năm 1968, ngay sau khi ngừng ném bom miền Bắc, đế quốc Mỹ tập trung hỏa lực đánh phá ngăn chặn quyết liệt Tuyến 559, bộ đội Công trường 18 đường ống tiếp tục nhận nhiệm vụ xây dựng đường ống vượt Trường Sơn.
 |
Những người lính đứng máy vận hành xăng. Ảnh chụp lại |
Đưa xăng qua “túi bom”
“Ai đã từng qua Trường Sơn đều biết đèo Mụ Giạ rất hiểm trở, một bên là núi cao vút, giữa là vực sâu. Khi Công trường 18 lên thi công qua đoạn 050 thì rừng ở đây còn xanh bạt ngàn nhưng khi bọn thám báo phát hiện ta lắp đường ống qua 050 thì chúng kéo B52 đến đánh phá. Cửa khẩu 050, ngầm Xiêng Phan trở thành một hiểm địa, là túi bom của máy bay Mỹ. Núi rừng ngày đêm rung chuyển vì đủ các loại bom. Đá bị bóc hết lớp này tới lớp khác, tơi thành bột...”, Thượng tá Hà Khắc Thuần, nguyên Phó cục trưởng Cục Xăng dầu, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 592 kể.
Trước tình hình này, để lắp đặt đường đường ống tuyến hướng tây Trường Sơn, từ đèo Mụ Giạ vượt qua cửa khẩu 050 vào Na Tông rồi xuống Ka Vát, đi Lùm Bùm (Lào), công trường quyết định tìm tuyến tránh trọng điểm 050 chừng 1km. Để nghi binh, ta đã dùng ống hỏng lắp qua nơi địch đã đánh, để lại một số phuy xăng để khi địch đánh vào là bốc cháy khiến chúng tưởng ta vẫn giữ tuyến đó. Cùng lúc đó, ở tuyến tránh, bộ đội vác ống leo qua đèo Mụ Giạ, ven theo bìa rừng, tập kết vào khu an toàn để tối đến mới lắp.
Thượng tá Hà Khắc Thuần cho biết, tuyến từ Mụ Giạ đến Ka Vát khoảng 90km, để xăng kịp đến Na Tông trước Tết Nguyên đán phục vụ Đoàn 559 tổ chức vận chuyển đột kích, toàn tuyến đã làm ngày làm đêm và thực hiện phương thức “vận hành phân đoạn” để thi công tới đâu, dòng xăng chảy tới đó.
Đèo Mụ Giạ cao khoảng 1.500m so với nước biển, núi non hiểm trở, ô tô không đi được, anh em phải thay nhau vác ống. Đến khu vực bản Sôi, dù ống của Liên Xô viện trợ (khoảng 32kg) hết và được thay bằng ống của Việt Nam (72kg) nhưng anh em, thậm chí cả chị em phụ nữ vẫn khắc phục, vượt đá tai mèo, kịp đưa dòng xăng ra phía trước.
Nếu việc đưa ống lên đỉnh dốc, đào rãnh, đặt được ống đã khó thì lắp máy bơm đúng vị trí còn khó hơn khi chỉ dùng sức lao động thủ công. Bằng ý chí quyết tâm của toàn công trường, đúng đêm 30 Tết Kỷ Dậu (năm 1969), đường ống đã bơm xăng vươt đèo Mụ Giạ vào đầy kho ở Na Tông, cấp phát kịp thời cho đoàn xe rầm rập ra chiến trường.
 |
Thượng tá Hà Khắc Thuần thăm Trung sĩ Nguyễn Lương Định, người hứng trọn quả bom từ trường để cứu đồng đội
|
Mở trục vượt khẩu mới
Trên Trường Sơn, địch tập trung lực lượng không quân gia tăng đánh phá. Thực tế này đã đặt ra yêu cầu mới đối với Tuyến 559, đó là không thể dừng lại ở đơn tuyến mà phải phát triển thành nhiều đường, nhiều hướng vận chuyển. Do đó, Tuyến 559 cần mở thêm các trục vượt khẩu mới, hướng Đông Trường Sơn, theo trục đường 18 và 16, đây là cách đưa xăng dầu vào Đường 9 nhanh nhất.
Với địa hình bị chia cắt bởi các sống núi chắn ngang, khiến tuyến phải liên tục lên đèo, xuống vực. Hầu hết không thể dùng ô tô vận chuyển ống vào mà phải dùng tới đôi vai chiến sĩ. Muốn vượt qua các cao điểm dựng đứng, chiến sĩ phải dùng dây bám đu kéo theo cả ống đưa lên đỉnh dốc. Đối với máy bơm, bể chứa, việc vận chuyển khó hơn, bộ đội ta phải tập trung lực lượng kéo máy, kéo bể như kéo pháo năm xưa vào Điện Biên Phủ.
Là kỹ sư phụ trách trên Công trường 18B, đồng chí Hồ Sỹ Hậu và các cán bộ thi công công trình lúc đó đã có lúc cảm thấy “bế tắc” khi địch phát hiện ra kho K3 và tuyến ống suối Ra Mai nên không chỉ rải thảm B52 mà còn dùng mọi phương tiện, mọi thủ đoạn để ngăn chặn. Tuyến ống bị đánh hỏng. Trước tình hình đó, Công trường 18B và các đơn vị thi công phải khẩn trương tìm tuyến tránh, đưa xăng vào Bản Cọ. Từ chân đèo 700, các kỹ sư khảo sát, cán bộ phát huy sáng kiến tìm ra hướng đi nhưng thật lạ, tất cả mọi tuyến tìm ra đều bị B52 đánh, kể cả những đoạn mới. Cuộc chiến giành giật ấy diễn ra cả tháng trời mà vẫn không sao phát triển tuyến được.
Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu kể: “Tuyến cứ phát ra thì bị đánh, có khi chưa phát đã đánh. B52 chà đi xát lại, không thể nào vượt qua được. Một lần lên đường khảo sát một tuyến tránh khác, có người bạn kỹ sư hỏi: Ta đi thì nó đánh, đánh thì ta lại tránh, vậy con đường luẩn quẩn này đến bao giờ làm được đây, lúc đó tôi trả lời: Thế thì chả lẽ lại đầu hàng à!”.
Nhìn mọi con đường đều bị B52 chà nát, trên bản đồ chỉ còn cao điểm 911. Đây là điểm cao nhất khu vực nằm trên dãy núi có cao điểm 1001m. Xét trên quan điểm kỹ thuật làm đường ống dẫn dầu thì không thể đưa tuyến ống qua đó nhưng xét về chiến thuật thì đây là hướng tuyến hoàn toàn bất ngờ bởi người Mỹ chắc sẽ không bao giờ nghĩ Việt Cộng lại đưa ống lên núi, mà đưa lên đó cũng không thể bơm lên được, nên chỗ đó chúng bỏ sót, nhờ đó mà mình vượt qua.
Phải vượt qua độ cao hơn thiết kế ban đầu hàng trăm mét, phải bổ sung thêm máy bơm, nhưng đưa máy bơm vào đây không không khả thi. Không chịu bó tay, các kỹ sư tính bài toán thủy lực, cho tuyến vượt bên sườn cao điểm 911, bơm xăng qua cao điểm này bằng các máy bơm đặt ở chân đèo 700, chấp nhận ống ở chân phía bắc cao điểm thường xuyên chịu áp suất gần với giới hạn cho phép.
“Sau 3 tháng quần nhau, cuối cùng mình đã đưa được đường ống vượt qua cửa tử. Sự khốc liệt tuy dồn ở những cây số đầu nhưng tính trung bình trên đoạn đường 50km đó, mỗi cây số có 2 người hy sinh”, Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu nhớ lại và cho biết, sau khi đưa tuyến lên 911 rồi xuất hiện trọng điểm Pha Bang Nưa, địch đánh phá khiến cả cánh đồng mấy cây số như trên mặt trăng, lỗ chỗ bom. Có thời kỳ bơm cả ngàn khối xăng, sang bên kia chỉ còn mấy khối, gần như đổ xuống các hố bom.
Bám tuyến, vận hành thông suốt
Nếu thi công lắp ống là sự đấu trí với phương châm: Ngắn, gần, tránh, kín thì khâu vận hành không chỉ đòi hỏi sự mưu trí, dũng cảm trước những tình huống bất ngờ bởi họ đang vận hành một “dòng sông mang lửa”, chỉ một tia lửa cũng đủ làm bốc cháy, khiến tuyến bị lộ.
Chiến sĩ trẻ Nguyễn Thị Phương Liên của gần 45 năm về trước, lúc đó mới 17 tuổi, thuộc Đại đội 1, Tiểu đoàn 668, Trung đoàn 592, không quên được cảm giác “nằm trên đống lửa” khi bám tuyến ở tại Kho K200C. Khi dòng xăng bắt đầu được đẩy đi, giữa tiếng máy và tiếng bom ầm ào, những người lính đảm nhận nhiệm vụ liên lạc như cô luôn phải tai áp vào ống nghe 24/24 giờ, tập trung cao độ ghi nhận mọi thông tin về độ ẩm, áp suất để dòng xăng giữa các trạm được vận hành một cách thông suốt, chính xác nhất.
Không chỉ trực thông tin, những người lính vận hành không kể nam hay nữ, đều vác ống, gánh ngoàm, khênh tôn hàn bể xăng, kiểm tra tuyến, nối dây thông tin. Có những đêm, khi có thông tin áp suất không lên được, các cô phải lập tức đi kiểm tra xem đường ống bị vỡ ở đâu. Nhiều đoạn tuyến bị bom dội, không ống nào còn nguyên vẹn, các ốp ngoàm, ốp ống được trang bị theo cơ số của Liên Xô chỉ dùng được ngày đầu. Sau khi bị bom bi làm thủng ống, anh em vót những que tre nhọn đóng vào, dùng dây rừng buộc mới đủ ống và kịp vận hành.
Một trong những kỷ niệm khiến cô Liên đến bây giờ vẫn xúc động khi kể lại là sau trận bom đánh vào Z2, cô cùng các chị em mang quần áo của thương binh ra suối giặt. Giặt tới đâu thì nước mắt tràn theo tới đó bởi máu đỏ ngầu hết cả dòng suối.
Là một chỉ huy, đồng chí Mai Trọng Phước rất hay đi tuyến. Ông kể, địch đánh cháy tuyến, họ có mặt ngay để dập lửa, có nhiều đồng chí hy sinh anh dũng khi lao tới đóng van, xăng trong ống được bảo vệ nhưng đồng chí bùng cháy lên như một ngọn đuốc sống.
“Tai nghe, mũi ngửi, mắt nhìn, chân đi tận tuyến, mắt lần từng nơi”, đó là những gì để miêu tả người lính tuyến ống, Đại tá Mai Trọng Phước chia sẻ. Ban đầu vận hành chưa hiểu quy luật đồng nhất, nên chúng ta cứ bơm theo kiểu của mình, gây ra nhiều vụ nổ vỡ ống, trục trặc liên miên tổn thất nặng nề. Do đó, để con “đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất” ấy vận hành xuyên suốt gần 5000km từ Bắc chí Nam là cả một sự đòi hỏi liên hiệp của dây chuyền và đồng nhất. Đó là liên hiệp giữa máy và tuyến, dây chuyền giữa máy và máy, đồng nhất về lưu lượng. “Làm gì thì làm phải đảm bảo 3 nguyên tắc đó thì xăng mới chảy, nếu không dòng xăng sẽ tắc”, Đại tá Mai Trọng Phước khẳng định.
Việc tìm và khắc phục sự cố trên cả đoạn tuyến dài hàng cây số mất nhiều thời gian khiến ta mất nhiều thời cơ vận hành khi địch ngừng bắn, nhiều sáng kiến đã được đưa ra, trong đó sáng kiến “đo thủy lực” của kỹ sư Đào Quang Nghiêm đã giúp tìm ra vị trí sự cố nhanh chóng, góp phần giảm tổn thất xăng dầu, giảm thương vong cho bộ đội trên tuyến, Thượng tá Hà Khắc Thuần cho biết.
Đến nay, khi kể về những việc mà cán bộ, chiến sĩ tuyến ống Trường Sơn đã làm, Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu vẫn tâm đắc rằng đến cuối cuộc chiến tranh chống Mỹ, tuyến ống Trường Sơn dài tới hàng nghìn kilomet không thể kể hết được những việc làm tốt đẹp, những hy sinh cao cả mà các chiến sĩ tuyến ống đã làm và chắc chắn tuyến đường ống xăng dầu Trường Sơn mãi là một quãng đời thật đẹp và đáng tự hào của người chiến sĩ Bộ đội Cụ Hồ.
Bài, ảnh: THU HÀ
Kỳ 1: "Cứu sống" Trường Sơn
Kỳ 2: Vượt “tam giác lửa”