QĐND Online – Cuối năm 1967, việc tiếp nhận 2 bộ đường ống dã chiến (dài 200km với 20 máy đẩy và các thiết bị khác) do Liên Xô viện trợ đã hoàn tất. Cấp trên ban đầu định đưa ống vào lắp ráp từ Khe Ve theo đường 12 qua đèo Mụ Giạ (Quảng Bình), vượt Tây Trường Sơn xuống Lùm Bùm (Lào) tiếp cận vào Đường 9, bởi đây là điểm có thể cấp phát xăng cho cả hai hướng. Song tháng 4 năm 1968, địch tập trung đánh phá dữ dội từ vĩ tuyến 19 trở vào, tạo thành những trọng điểm vô cùng ác liệt, điển hình là “tam giác lửa” Vinh – Nam Đàn – Linh Cảm, xe chở xăng không thể qua được sông Lam, sông La. Trước tình hình đó, Tổng cục Hậu cần đã triển khai xây dựng tuyến ống vượt qua trọng điểm Khu 4 trước.
Đến giữa tháng 6, đoạn Nam Thanh – Nga Lộc dài 42km vượt qua “tam giác lửa” Vinh – Nam Đàn – Linh Cảm được chọn làm đoạn tuyến đầu tiên, lấy mật danh X42.
 |
Khắc phục sự cố tuyến đường ống X42. Ảnh chụp lại |
Vượt sông Lam
Theo kế hoạch, địa điểm thi công tuyến ống vượt sông Lam gần Rú Trét là một trọng điểm đánh phá hết sức ác liệt của địch suốt ngày đêm, không thể sử dụng xe xích, xà lan hoặc ca nô kéo ống, tình hình rất khó khăn. Lúc đó, đồng chí Đinh Đức Thiện đề nghị nếu thấy vượt sông Lam khó quá thì tổ chức lực lượng thi công thí điểm vượt sông Hồng, sau đó mới triển khai thi công X42, Đoàn trưởng Công trường 18, Mai Trọng Phước kể. Ông nhớ, lúc đó ý kiến của ông đã thuyết phục được mọi người rằng: Đang mùa khô, mức nước sông Lam còn thấp, sang tháng sau nước sông sẽ lên rất cao, chảy xiết, việc kéo ống qua sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Và đề nghị cấp trên cứ cho làm thử rút kinh nghiệm, vừa làm vừa học. Ông tin tưởng với sự giúp đỡ của nhân dân, nhất định sẽ làm được.
Chiều 22-6-1968, sau khi máy bay địch vừa đi khỏi, bên dòng sông Lam, rộng 500m, Công trường 18 triển khai đội hình thi công. Cùng với lực lượng dân quân, các khâu đào tuyến, rải ống đều được tiến hành theo đúng kỹ thuật. Đêm đó, mặc cho máy bay địch đang gầm rít thả pháo sáng, bắn phá dữ dội ngay tại trọng điểm Rú Trét, cách đó khoảng 500m, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mai Trọng Phước, tất cả sẵn sàng vượt sông.
Bình thường để đưa được hàng tấn sắt qua sông phải có cần cẩu, máy bay và xe chuyên dụng hỗ trợ, thì đêm ấy hoàn toàn được kéo bằng sức người với ý chí quyết tâm của các chiến sĩ. Những chiếc ống đầu tiên được kéo xuống sông, qua một phần ba sông bỗng khựng lại, dây cáp không nhúc nhích. Thì ra phù sa đã lấp cáp, hơn nữa ống húc phải đá ngầm dưới lòng sông. Giữa lúc Ban chỉ huy công trường đang tìm cách giải quyết, thì tiếng một dân quân vang lên “Hay dùng thuyền nâng đầu ống lên!”, đồng chí Mai Trọng Phước nhớ lại.
Nhờ hai chiếc thuyền của dân cho mượn, buộc tre làm giá đỡ giữa hai con thuyền chở đầu ống qua sông. “Đúng là khó vạn lần dân liệu cũng qua. Cứ thế, đường ống như con rắn khổng lồ ngoan ngoãn trườn qua sông”. Sau một đêm lao động vật lộn với sắt thép và dòng nước xiết, dưới bom đạn của địch, sáng hôm sau đường ống đã vượt sông an toàn. “Đến tận bây giờ, tôi và các anh em công trường vẫn không thể quên được giờ phút lịch sử đó”, đồng chí Mai Trọng Phước bồi hồi kể.
Chính thử thách đầu tiên này đã giúp bộ đội đường ống tự tin ở khả năng sáng tạo của mình, để từ đó đến hết cuộc chiến tranh, dễ dàng thi công vượt qua hàng trăm đoạn sông khác.
 |
Đại tá Mai Trọng Phước kể lại quá trình đưa ống vượt sông |
“Qua mặt” máy bay Mỹ
Sự kiện đưa đường ống vượt sông Lam thành công đã cổ vũ toàn công trường nô nức thi đua đẩy nhanh tiến độ. Thử thách nối tiếp thử thách. Câu hỏi làm thế nào để đặt ống vào Nga Lộc khi Công trường 18 phải thi công ban đêm muôn vàn khó khăn, đường hào không thẳng nên không đặt ống được, phải đào đi đào lại. Đồng chí Mai Trọng Phước để ý thấy người dân Nam Đông ban ngày vẫn làm ruộng bình thường, hỏi ra mới biết địch đã rải truyền đơn tuyên truyền với nội dung “Nếu dân Nam Đông không chứa bộ đội sẽ được làm ăn bình thường”. Vậy là ban ngày, bộ đội mặc áo tơi, đội nón đào ống ban ngày giả nông dân đi làm thủy lợi, ban đêm lắp ống. Khi ống qua ruộng lúa thì nhổ lúa lên, lắp ráp và chôn ống xong thì cấy lúa lên. Nhờ đó, địch không thể phát hiện được tuyến ống.
Đặt được ống rồi thì trạm bơm to như vậy đặt ở đâu giữa đồng không có vật ngụy trang, che chở. Người chỉ huy giàu kinh nghiệm Mai Trọng Phước cùng đồng đội phát hiện những chòi canh lúa của nông dân. Việc đặt máy bơm vào những chòi canh để “qua mặt” máy bay Mỹ có thể coi là một sáng kiến được vận dụng sáng tạo trong thời chiến.
Trình độ kỹ thuật của cán bộ, chiến sĩ không ngừng được nâng lên, mỗi người bình quân mỗi đêm lắp được 60 ống. Chẳng mấy chốc, sau 45 ngày các tuyến ống từ Nam Thanh vượt qua “tam giác lửa” tới Nga Lộc đã được nối lại với nhau, gồm: Hệ thống tuyến, trạm bơm, kho chứa, đường dây thông tin. Ít ngày sau khi vận hành X42, kho Nga Lộc đã chứa đầy xăng, đảm bảo xăng dầu cho vận tải trên tuyến lửa Khu 4, cũng như cấp phát xăng cho Đoàn 559.
Hơn 4 tháng thi công và vận hành tuyến X42, trong điều kiện quân địch đánh phá ác liệt, đã có nhiều tấm gương hy sinh quên mình của những người chiến sĩ. “Có lẽ không ai có thể quên sự hy sinh của Thiếu úy Hoàng Lương, một kỹ sư mới được đào tạo từ Liên Xô về, trong lần vận hành ở N2B, vì áp suất lớn, ống mềm bị bung khỏi cửa ra xe bơm và bốc cháy. Hoàng Lương lao ra đóng van không cho đám cháy lan rộng. Dòng xăng được chặn nhưng toàn thân anh bùng lên như một ngọn đuốc. Nằm trên cáng cấp cứu, anh yêu cầu đồng đội đừng che mắt để được nhìn quê hương lần cuối”, Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu chia sẻ về sự hy sinh đầu tiên của một kỹ sư trên tuyến ống.
Sự ra đi của anh không chỉ để lại niềm tiếc thương vô hạn cho đồng đội, mà từ sự cố này, toàn đội đã rút ra nhiều kinh nghiệm khi lắp ống.
Có thể nói, sự thành công trong việc xây dựng và vận hành tuyến ống dẫn xăng dầu trên tuyến lửa Khu 4 có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ đánh dấu bước phát triển mới của công tác đảm bảo xăng dầu quân đội, mà còn là đoạn thể nghiệm để kéo dài đường ống ra hai đầu vượt ra phía Bắc và tiếp tục vươn vào phía Nam, đảm bảo cho tuyến vận tải chiến lược.
Bài, ảnh: THU HÀ
Kỳ 1: "Cứu sống" Trường Sơn