QĐND Online – Nếu như tuyến đường Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đi vào lịch sử dân tộc như một huyền thoại thì tuyến đường ống xăng dầu chính là “huyền thoại của huyền thoại”.
Trong vòng hơn 6 năm (6-1968 đến 2-1975), những người lính xăng dầu đã làm nên một “đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất” dài gần 5.000km và hệ thống kho xăng dầu gần 3 vạn tấn từ biên giới Việt - Trung vào đến Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước.
 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp kiểm tra bộ đội vận hành đường ống xăng dầu. Ảnh chụp lại |
“Với tuyến ống lịch sử này, bộ đội xăng dầu đã bảo đảm cung cấp xăng dầu kịp thời, đầy đủ cho chiến trường trong mọi tình huống, góp phần làm thất bại mọi âm mưu của Mỹ - ngụy đánh phá ác liệt ngày đêm hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn. Đặc biệt, trong Chiến dịch lịch sử Xuân 1975, việc cung cấp xăng dầu đã đảm bảo cho cuộc hành quân thần tốc của các quân binh chủng tiến vào bao vây, tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở Sài Gòn, giành thắng lợi trọn vẹn”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá như vậy về công trình đường ống vượt Trường Sơn đưa xăng dầu vào chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ.
Xăng đổi bằng máu
Cuối năm 1967, địch đánh phá ngày càng điên cuồng, quyết liệt cả trên miền Bắc và trên tuyến Trường Sơn làm cho công tác đảm bảo xăng dầu trên tuyến chi viện chiến lược gặp vô vàn khó khăn. Tình hình trở nên căng thẳng khi Đoàn 559, với nhiệm vụ đưa bộ đội, vận chuyển vũ khí, đạn dược, trang quân dụng cho chiến trường miền Nam, không còn xăng dầu cho xe cơ giới hoạt động. “Làm sao để có xăng cho Trường Sơn, làm thế nào để tiếp nhân lực, vật lực cho miền Nam, đang chuẩn bị cho những trận đánh quyết định, quy mô lớn…”, Đại tá Mai Trọng Phước, nguyên Phó Tham mưu trưởng Đoàn 559, nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu, dù đã bước sang tuổi 92 vẫn không thể nào quên cảm giác đau xót lúc ấy khi nhìn đoàn xe nằm im, không nhúc nhích, hàng ứ đọng ở miền Bắc, Trường Sơn bộ đội bị đói, thương binh không được cứu chữa kịp thời.
Trước mức độ cấp bách, có tính chất sống còn này, hàng loạt kế hoạch “cấp cứu” xăng dầu được đưa ra. Đại tá Mai Trọng Phước kể: Trên tuyến Binh trạm 12, khu vực ngã ba Khe Ve, nơi gặp nhau của đường 12 và đường 15 là một hiểm địa, là trọng điểm đánh phá của địch. Hố bom chồng lên hố bom, bom nghiền nát đất đá thành bột, gặp nước tạo thành con đường bùn lầy dày hàng mét, kéo dài hàng kilomet, xe không thể qua được. Kế hoạch vận chuyển xăng bằng “ống bương” được đề xuất. Bộ đội tận dụng mọi thứ gọi là “ống” như ống cao su, ống nước, hàn tôn thành ống và cả ống bương buộc với nhau bằng săm cao su ô tô, nối lại thành tuyến đường ống có “một không hai”. Đoạn ống độc đáo đó đã tồn tại 2 tháng liền, đưa được hơn 100 tấn xăng vượt qua trọng điểm. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, xăng ngấm vào ống bương co ngót, đoạn nối ống bằng cao su không kín nên xăng chảy ra nhiều và hiệu quả không cao.
“Cái giá để đưa được xăng dầu vượt Trường Sơn thật không sao đo đếm được!”, vị đại tá già ngậm ngùi chia sẻ. Tuyến “ống bương” không hiệu quả, anh em bộ đội lại “kiệu xăng”, bằng cách cứ 4 người khiêng một phuy xăng 100 lít đi qua bãi lầy. Ròng rã hai ngày mới giao đủ 2 xe xăng cho Đoàn 559 nhưng cái giá phải trả thật đắt bởi những thương vong do trúng mìn hay ngã xuống vực của chiến sĩ.
Không để tình trạng xăng dầu tắc nghẽn khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã chuyển sang giai đoạn 3, Binh trạm 12 đã áp dụng biện pháp “gùi xăng”. Hàng ngàn túi ni lông bọc xăng đựng vào ba lô, gùi trên lưng chiến sĩ, cõng qua trọng điểm. Một ngày vượt qua bom đạn địch, 500 người đeo ba lô bì bõm trong bùn lầy mới giao được 2 chuyến xăng dầu cho kho tiếp nhận và điều đau xót không kém là chiến sĩ cả trai lẫn gái bị bỏng, lưng phồng rộp do xăng ngấm qua ba lô.
Cùng thời gian này, ở Binh trạm 14, việc chuyển xăng qua trọng điểm cũng không khá hơn gì. Tất cả các tuyến đường bộ, đường sông đều bị địch phong tỏa gắt gao.
“Có những thời điểm, giá một phuy xăng đổi một mạng người”, Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu, nguyên Cục trưởng Cục Kinh tế Bộ Quốc phòng, nguyên Phó trưởng ban Khảo sát thiết kế đường ống Cục Xăng dầu 559 nhớ lại quãng thời gian nguồn xăng “cạn kiệt” ấy. Cuối năm 1968, bộ đội ta với lòng dũng cảm và mưu trí sáng tạo đã chấp nhận cuộc chiến đấu không cân sức với kẻ thù nhằm đưa được xăng dầu lên phía trước. Có đêm, anh em đang kéo xăng qua khe suối Trà Ang, bất ngờ máy bay địch đến đánh phá, 30 phuy xăng tới đích nhưng 29 chiến sĩ thương vong.
 |
Đại tá Mai Trọng Phước và Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu (đứng thứ ba và thứ tư hàng đầu, từ trái sang) gặp lại những cán bộ, chiến sĩ Công trường 18 sau 40 năm. |
Những bước chân đầu tiên
Một sự kiện hết sức quan trọng, tạo bước ngoặt cho ngành xăng dầu là chuyến đi của đồng chí Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần sang Liên Xô dự tập trận khối Vacsava. Nhìn cách tiếp xăng dầu của quân đội Liên Xô bằng đường ống dã chiến, đồng chí Đinh Đức Thiện lập tức nghĩ đến phương thức vận chuyển mới cho quân đội Việt Nam. Sau khi nhận được sự đồng ý của Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, tuyến đường ống đưa xăng dầu vào Trường Sơn bắt đầu được hình thành.
Có thể nói, tầm nhìn chiến lược của nhà quân sự tài ba Đinh Đức Thiện đã giải được bài toán cực kỳ khó khăn của quân dân lúc đó. Đây là một quyết định cực kỳ đúng đắn, đã “cứu sống” Trường Sơn, Đại tá Mai Trọng Phước khẳng định.
Ngày 20-4-1968, Công trường 18 (tương đương cấp trung đoàn) được thành lập, do Đại tá Mai Trọng Phước (lúc đó là thiếu tá) làm đoàn trưởng. “Trước mắt nhận nhiệm vụ thi công đoạn vượt tuyến qua “tam giác lửa” Vinh – Nam Đàn – Linh Cảm, cùng đi với tôi vào “cuộc chiến” có 18 kỹ sư trẻ và chưa một ai có kinh nghiệm về đường ống nhưng với sức trẻ, chúng tôi vẫn hăng hái lên đường”, Đại tá Mai Trọng Phước kể.
Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu, một trong 18 kỹ sư có mặt trên tuyến lửa năm ấy vẫn nhớ như in những ngày đầu đi khảo sát mở tuyến. Đối với ông, câu chuyện về một thời máu lửa kia tưởng như chỉ vừa mới đây thôi khi tất cả chi tiết của những năm tháng ấy ùa về.
Là những cán bộ khảo sát tuyến đường đầu tiên của đơn vị đi tìm và mở tuyến, chúng tôi thường đi cắt rừng theo phương vị hoặc men theo dòng suối, vượt đỉnh núi theo phân thủy. Những người lính khảo sát vượt qua núi cao, suối lũ, vượt qua trọng điểm đánh phá ác liệt của địch và cả những cơn sốt rét. Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu nhớ lại “một lần lên cơn sốt dữ quá, bạn bè đã mang giúp súng, gạo, tôi chỉ khoác ba lô, vậy mà bước chân run rẩy, cho đến khi mắt hoa lên, tôi ngã rơi xuống vách đá. May mà rừng già, cây cối rậm rạp nên tôi rơi lên một cây bống báng, đồng đội lại lần xuống, dìu lên”.
“Một lần khác, khi đi tìm tuyến tránh, lên đỉnh 900, chúng tôi phải vượt qua bãi bom B52 mà địch vừa đánh hôm trước, chỉ còn lại những gốc cây bị bom địch chặt ngang tơ tướp trơ lại trên sườn dốc 60 độ với đất bột và đá nát vụn. Chúng tôi bám những gốc cây đó mà đi. Chỉ cần tuột tay là lăn xuống vực, ở dưới đấy, dòng suối đục ngầu, trông chỉ nhỏ như sợi chỉ. Ra đến giữa bãi bom, tôi bám vào một gốc cây, bỗng gốc cây ấy bật lên. Đó thực ra chỉ là một khúc gỗ bị bom chặt hai đầu, rồi cắm xuống lớp đất bột. Thế là tôi lăn trước, thanh gỗ lăn theo sau. Trong phản xạ tuyệt vọng, tôi quờ tay nắm lấy bất cứ thứ gì có thể nắm được và trời phật đã phù hộ cho tôi, tôi nắm được sợi dây. Tôi cố né sang một bên, cây gỗ đâm thẳng vào bao gạo tôi đeo trên lưng, gạo bắn tung tóe, thế là nó đổi hướng, lăn xuống tận đáy vực..., Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu nhớ lại khoảnh khắc “chết đi sống lại” ấy.
Chàng kỹ sư, người lính trẻ Hồ Sỹ Hậu vừa tốt nghiệp Đại học Bách khoa lần đầu đặt chân lên vùng đất hoang sơ, chưa có dấu chân người, không chỉ đối mặt với hiểm nguy luôn rình rập bởi những bãi mìn díp của địch, với bệnh tật mà còn phải đối mặt với điều kiện tác nghiệp mới không theo các tiêu chuẩn đã ghi trong sách vở.
Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu kể: Để phục vụ thiết kế, các kỹ sư phải dùng máy kinh vĩ để đo, do đó phải phát hết cây để tạo đường ngắm cho máy, nhưng sau 3 ngày thấy việc làm này không hiệu quả, thế là mọi máy móc trắc địa phải để lại. Tiếp đó, các cán bộ kỹ thuật lại dùng thước đo độ có quả rọi để tìm ra góc rồi giải bài toán lượng giác tính chiều dài và độ cao, nhưng việc này cũng quá lâu và độ chính xác không cao. Thế là chiều dài và độ cao trên mặt cắt dọc được xác định bằng cách đo đường bình độ trên bản đồ. Mọi việc tưởng thế đã ổn, không nhờ khi tuyến qua Lằng Khằng thì gặp toàn núi đá. Núi đá không có đường bình độ, hơn nữa, một số khu vực ở Trường Sơn người Pháp chưa vẽ bản đồ. Vậy là, các kỹ sư làm động tác “đếm bước chênh cao” chẳng giống ai. Trên đường đi, họ tập trung tư tưởng cao độ để ước lượng độ cao từng bước chân và ghi chép lại. Có nhiều chỗ phải leo vách, vậy mà những kỹ sư tài ba ấy vẫn đo và thiết kế được bản vẽ. Ban đầu, độ sai lệch cũng khá lớn nhưng được khắc phục bằng cách cho “già” đi một chút khi thiết kế, thêm vào đó, máy bơm cũng khỏe nên “chấp nhận” được cái “phát minh” bất đắc dĩ ấy. Sau này, với kinh nghiệm dày dặn của các kỹ sư, không có trường hợp nào đường ống vận hành không đạt yêu cầu vì đặt sai vị trí trạm bơm.
Bài, ảnh: THU HÀ
Kỳ 2: Vượt “tam giác lửa”