 |
| Thiếu tướng Lê Mã Lương (bên phải) và vợ chồng anh Lê Huy Bé, 2 trong số những nhân chứng trong vụ ném bom của máy bay Mỹ ngày 14-6-1972. Ảnh: PHẠM HỮU SƠN |
Mùa hè năm 1972 của 37 năm về trước, những người lính chúng tôi đang cầm súng chiến đấu ở Quảng Trị - một trong những chiến trường ác liệt nhất - thì nhận được thư từ hậu phương: ... 8h sáng ngày 14-6-1972 một tốp máy bay 4 chiếc A7 từ Biển Đông lao thẳng về cầu Hàm Rồng nhưng lại trút bom xuống đầu 2.000 con người đang đắp đê sông Mã cách cây cầu 1km, làm chết và bị thương khoảng 400 người, hầu hết là các nữ sinh, giáo sinh ở các trường thuộc thị xã Thanh Hóa... Trong giây lát, những khuôn mặt rắn rỏi còn đọng lại bụi và khói súng sau trận đánh khẽ rùng mình, thế rồi ai đó thốt lên phá tan bầu không khí tĩnh lặng: “Mỹ đã gây nên tội ác tày trời này, tại sao chúng lại bắn giết những con người không có vũ trang, thật là ghê sợ!”. Tất cả chúng tôi như được hậu phương tiếp thêm sức mạnh xốc lại vũ khí, trang bị bước vào những trận đánh mới nảy lửa để trả thù cho những người dân vô tội.
Chiến tranh lùi xa, sự kiện đau buồn này cũng ít được người ta nhắc tới. Còn những người lính chúng tôi cứ đinh ninh rằng: Họ, những người ngã xuống khi làm nhiệm vụ ở khu vực cầu Hàm Rồng - một trong những trọng điểm đánh phá ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân và hải quân Mỹ những năm 1965-1972 - đã được ghi nhớ và biết tới, chí ít là cái văn bia để không lãng quên những ngày cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Những dịp về công tác tại tỉnh Thanh Hóa tham gia bảo tồn và tôn tạo di tích lịch sử văn hóa chúng tôi gắng lần theo các địa chỉ để tìm hiểu về sự kiện ngày 14-6-1972, nhưng số người biết về sự kiện này không nhiều. Day dứt và cũng rất kiên trì, cuối cùng thì chúng tôi cũng phát hiện được những nhân chứng quan trọng, những người trực tiếp tham gia sự kiện bi hùng này.
6 giờ 30 phút sáng ngày 13-6-2009, từ nhà khách tỉnh Thanh Hóa chúng tôi lên đường. Thứ Bảy là ngày nghỉ, đường phố còn vắng vẻ. Không khí mát mẻ dễ chịu sau mấy ngày nắng nóng đến khó thở. Được Đại tá, cựu chiến binh Lê Xuân Giang cung cấp địa chỉ gia đình anh Lê Huy Bé - hai vợ chồng anh là những nhân chứng về sự kiện ngày 14-6-1972 - chúng tôi đến ngay nhà anh. May quá, nhà anh Bé sát đường quốc lộ nên tìm thấy ngay. Trong căn nhà đơn sơ và ấm cúng, anh chị tíu tít pha trà mời nước khiến chúng tôi cảm động. Anh chị đã được ông Giang thông báo nên anh Bé vào đề ngay.
“... Tôi là công an đồn Hàm Rồng, làm nhiệm vụ đảm bảo giao thông ở cầu Hàm Rồng. Ngày hôm đó tôi đang chỉ huy xe qua lại tại cầu phao số 1, sát nơi mọi người đắp đê. Tôi nhớ hôm đó là ngày 4-5-1972 (âm lịch), khoảng 8 giờ sáng thì máy bay Mỹ ập đến. Trên đê đang có khoảng 2.000 người, gồm dân công, giáo sinh của Trường sư phạm 10+2, giáo viên các cấp 1, 2, 3 của huyện Đông Sơn, Hoằng Hoá và giáo viên trường Trung cấp Thương nghiệp, Trung cấp Y đang lao động đắp đê Hàm Rồng. Khi máy bay Mỹ ập đến thả bom, kẻng báo động cũng chưa kịp đánh, anh chị em không chạy kịp vào hầm nên thương vong nhiều lắm. Máy bay Mỹ ném bom trong một giờ đồng hồ, các trận địa pháo, súng máy cao xạ 12,7mm của ta bắn lên nhưng không trúng máy bay. Tôi nhớ, có 170 người bị thương, 140 người chết, người cụt chân, cụt tay, người mất đầu, người bị thương rên la và người sống sót kêu khóc thảm thiết. Những người chết, quần áo không ai còn, cứ trần truồng nằm đấy; hoặc chỉ còn cạp quần, vạt áo thôi. Thật là đau xót. Tôi và tất cả anh em đồn công an Hàm Rồng đang làm nhiệm vụ ở cầu Hàm Rồng và bến phà 1 là những người đầu tiên chạy ngay xuống bế những người bị chết và bị thương lên đê, huy động tất cả xe ô tô đang chờ xuống cầu phao 1 chở người chết, người bị thương đưa vào bệnh viện cấp cứu và mai táng.
Sau đó có thêm các lực lượng cán bộ, bộ đội, dân quân, công an vũ trang của huyện Đông Sơn và thị xã Thanh Hóa đến cứu. Phải làm đến 15 giờ chiều mới tìm, moi hết được người chết, người bị thương ở dưới bùn đất lên và chở về nơi cấp cứu”.
 |
| Toàn cảnh đoạn đê nơi xảy ra trận bom Mỹ làm chết và bị thương gần 400 người lúc 8 giờ sáng ngày 14-6-1972 |
Chị Dương Thị Hòa, vợ anh Bé, sinh ngày 24-1-1950, quê ở làng Đông Sơn cho biết thêm: “Tôi lúc đó là giáo viên Trường cấp 2 Hàm Rồng. Khi Mỹ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai, trường sơ tán mỗi lớp một nơi, lớp học ở đình làng, lớp học ở nhà dân. Do đang là dịp nghỉ hè nên trường huy động tất cả giáo viên đi đắp đê Hàm Rồng. Chúng tôi làm từ lúc chưa tỏ mặt người đến 8 giờ sáng thì nghỉ. Đã làm được một tuần rồi, ngày 4-5 âm lịch (dương lịch là 14-6-1972), do nguyện vọng của hết thảy giáo viên mong được nghỉ ngày hôm sau là Tết Đoan Ngọ nên anh chị em làm cố thêm một giờ nữa để hôm sau nghỉ. Chúng tôi vừa giải lao xong, bắt đầu làm thì máy bay Mỹ đến thả bom. Chúng đánh bất ngờ, không ai kịp chạy vào hầm. Tôi cũng như mọi người chỉ biết ngồi tại chỗ, chúi đầu xuống mặt ruộng, hai tay ôm đầu chứ biết làm thế nào. Ngớt tiếng bom, tôi may mắn thoát chết nhưng quần áo rách tả tơi, người bê bết bùn đất cứ thế chạy thục mạng về hang nơi nhà sơ tán... Gần nửa tháng sau chúng tôi lại đi đắp đê tiếp cho đến tận đầu tháng 9 mới xong. Chúng tôi không làm ban ngày nữa mà làm ban đêm, làm hăng hái lắm, với tất cả lòng căm thù giặc Mỹ, làm để thay phần cho những người đã bị chết và bị thương. Chả ai mảy may sợ hãi gì cả, cứ vui như tết ấy, tuổi trẻ mà anh...”.
Theo sự giới thiệu của anh Lê Huy Bé, chúng tôi tìm đến nhà ông Lê Chí Phan, nguyên Chủ tịch UBND huyện Đông Sơn. Ông Phan sinh ngày 27-5-1936, nhà ở xóm 2, thôn Ái Sơn, xã Đông Hải, thành phố Thanh Hóa. Mặc dù đã hơn 70 tuổi nhưng trông ông vẫn còn tráng kiện, minh mẫn. Cả nhà vui vẻ đón khách. Ông Phan còn giục vợ làm cơm mời chúng tôi, tôi phải từ chối hẹn dịp khác sẽ đến hàn huyên với gia đình. Trong khi ông Phan đi rửa ấm chén pha trà đãi khách, chúng tôi dạo một vòng quanh sân ngó nhìn căn nhà xây đơn sơ, mảnh vườn 100m2 đan xen cây cảnh, rau củ, cây ăn quả. Trong nhà, giường, tủ, bàn ghế bài trí giản dị, mộc mạc như chính con người ông - lớp người sinh ra và trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, đầy nhiệt huyết cách mạng. Tôi ngước nhìn các tấm bằng huân chương kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hạng Nhất, kế bên là hai khung ảnh ông Phan chụp với Đại tướng Võ Nguyên Giáp tháng 9-1982 khi Đại tướng về Thanh Hóa nghe Thường vụ Tỉnh ủy báo cáo về việc kết hợp kinh tế - quốc phòng đưa dân đi xây dựng vùng kinh tế mới và ảnh chụp cùng nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu ngày 17-12-2006 tại Hà Nội. Sau tuần trà đậm chất quê, tôi vào đề ngay. Nghe tôi trình bày yêu cầu, tự dưng vẻ mặt ông Phan đang vui bỗng đăm chiêu. Ông chậm rãi kể:
“... Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc Mỹ từ 1965 đến 1968, con đê Nam Ngạn ở hai bờ sông Mã trong khu vực cầu Hàm Rồng là túi bom của địch nên bị phá hoại rất nhiều, đã được tu sửa để bảo đảm giao thông thông suốt. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của giặc Mỹ, sau các trận ném bom điên cuồng bằng máy bay B52, nhất là trong các ngày 21, 25, 26 và 27-4-1972, con đê bị sụt lở nhiều nhưng ta chưa có điều kiện tu bổ. Đến tháng 6-1972, nước sông Mã lên cao, nguy cơ vỡ đê có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tỉnh ủy họp bàn phải khẩn cấp bồi đắp đê ngay lúc địch đánh phá dữ dội để bảo đảm giao thông và phòng chống lũ lụt, vì con đê là đầu mối giao thông duy nhất lúc này. Giữ được đê là giữ được tất cả. Tỉnh ủy quyết định huy động lực lượng tối đa, thành lập Ban chỉ huy đắp đê gồm: Đồng chí Lê Đức Thắng, Giám đốc Ty thủy lợi Thanh Hóa là chỉ huy trưởng; Phó trưởng ban chỉ huy là đồng chí Hoàng Văn Hiều, Chủ tịch UBND tỉnh kiêm Chủ nhiệm phòng không nhân dân; các đồng chí ủy viên: Văn Bằng, tỉnh đội phó, Bùi Đình Nguyên, Phó giám đốc công an tỉnh.
Tỉnh giao nhiệm vụ cho Đảng bộ và UBND huyện Đông Sơn huy động cấp bách 1.000 người tham gia đắp đê Hàm Rồng. Hiểu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ đặc biệt này, Ban chấp hành Đảng bộ huyện quyết định thành lập ngay Ban chỉ huy công trường đắp đê Hàm Rồng. Tôi được phân công là chỉ huy trưởng, phó chỉ huy trưởng là Thượng úy Lê Văn Phiên, chính trị viên huyện đội. Lực lượng lao động huyện Đông Sơn là chủ công của công trường. Chúng tôi chọn lựa những lao động giỏi, có sức khỏe của 20 xã, mỗi xã một trung đội, tổng cộng 800 người. Lực lượng dân công của thị xã Thanh Hóa huy động 300 người. Giáo viên của các trường 1.000 người. Tổng quân số hơn 2.000 người. Phương châm Tỉnh ủy đề ra là bảo đảm an toàn cho người là quan trọng nhất nên Ban chỉ huy công trường phân công cứ 5 người làm 1 hầm chữ A chạy dọc chân đê, một đoạn lại có hầm chữ A. Tất cả các địa phương gửi xe lên công trường để làm hầm. Lực lượng cơ giới gồm 30 xe ben, 5 máy xúc DT 54. Ban chỉ huy giao nhiệm vụ: Dân công các xã Đông Cương, Đông Tân, Đông Lĩnh phục vụ cho các đội cơ giới. Dân công 17 xã còn lại làm bằng các phương tiện thủ công, gồm dân công các xã Đông Hoàng, Đông Vinh, Đông Phú, Đông Thịnh, Đông Hòa, Đông Tiến, Đông Thanh… Dân công thị xã Thanh Hóa đắp 300m đê, dân công huyện Đông Sơn đắp 600m, giáo viên các trường đắp 100m. Lúc đầu, thời gian làm việc được quy định từ 19 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau. Như thế sẽ bảo đảm được việc phòng không, nhưng lại cản trở việc các đoàn xe vận chuyển ra tiền tuyến nên Ban chỉ huy quyết định chuyển sang làm ban ngày, từ 5 giờ đến 8 giờ sáng. Riêng ngày 14-6-1972, do yêu cầu của dân công muốn được nghỉ Tết Đoan Ngọ nên Ban chỉ huy đồng ý cho anh em làm thêm một giờ nữa để hôm sau nghỉ; mỗi người được bồi dưỡng thêm 3 lạng thịt. Mọi người rất phấn khởi khi nghe tin đó. Khoảng 8 giờ sáng, giặc Mỹ dã man ập đến thả bom như một trận cuồng phong. Rất nhiều người chưa kịp chạy vào hầm đành nằm tại chỗ. Tuy vậy, người vào được hầm cũng hy sinh vì bom rơi trúng hầm hoặc bị thương vì sức ép của bom. Khói bom mù mịt không nhìn thấy gì cả. Sau khi dứt tiếng bom, Ban chỉ huy ở trong hầm chạy ra thấy mọi người chạy toán loạn. Chỉ sau trận bom 10 phút, đồng chí Võ Nguyên Lượng, Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Bùi Ngọc Bàng, Chính trị viên tỉnh đội trực tiếp đến công trường để chỉ đạo khắc phục hậu quả đánh phá của địch. Lãnh đạo tỉnh chỉ đạo Ban chỉ huy công trường huy động toàn bộ cán bộ, đảng viên của huyện Đông Sơn, thị xã Thanh Hóa, phối hợp với các đồng chí công an và bộ đội khoảng 50 người khẩn trương moi đất đưa những người bị vùi sâu dưới bùn lên, chuyển ngay về Bệnh viện Việt - Trung cấp cứu. Số người bị chết là 130, bị thương 140. Trường Y, Trường sư phạm 10+2 chết nhiều nhất. Trong đó, có cả đồng chí hiệu trưởng Trường sư phạm. Những người chết được chôn ở nghĩa trang chợ Nhang...".
Nói đến đây, mắt ông Phan rưng rưng lệ. Phải một lúc lâu ông mới nói tiếp, giọng buồn bã: “Cứ nghĩ đến ngày hôm đó tôi lại thấy gai hết cả người, đau xót lắm. Mỗi năm, ngày 14-6 là ngày giỗ chung của cả tỉnh Thanh Hóa. Lúc đó tôi và anh Hiều đề nghị với lãnh đạo cấp hơn 100 áo quan, sau đó bổ sung tiếp. Chúng tôi có báo cáo lại toàn bộ sự việc bằng văn bản với Tỉnh ủy, đề nghị chế độ chính sách cho người chết và người bị thương nhưng cho đến nay, do nhiều người khi đó chỉ là giáo sinh, chưa phải cán bộ, công nhân viên nhà nước nên không được hưởng chế độ gì. Riêng Đông Sơn có 1 người chết và 15 người bị thương. Công trường phải tạm dừng để củng cố tư tưởng và tổ chức. Hai tuần sau, công việc lại tiếp tục đợt 2. Mỗi xã trong huyện Đông Sơn huy động khoảng 30 người do các đồng chí xã đội trưởng trực tiếp chỉ huy. Các đơn vị của Đông Sơn được tổ chức chặt chẽ, sắp xếp công việc hợp lý, lại sử dụng xe thồ để vận chuyển đất nên lao động có năng suất, hiệu quả cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đắp đê từ cầu Hàm Rồng đến bến phà 2 vào trước ngày 5-9, đúng hạn định của tỉnh giao. Nhân dân Đông Sơn và nói chung những người tham gia đắp đê đợt đó đã góp phần bảo đảm thông đường cho các chuyến xe chở hàng ra tiền tuyến và giữ vững tuyến đê xung yếu Hàm Rồng, phục vụ kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh và của huyện.
(Còn nữa)
Thiếu tướng LÊ MÃ LƯƠNG