QĐND - Hà Nội rét, trời lại đổ mưa phùn, phố phường lạnh ngắt, hàng cây đen thẫm, run rẩy càng làm tăng thêm xúc cảm trước bản hòa tấu giá buốt của mùa đông. Ngắm nhìn đứa con tóp tép miệng ngủ mơ trong những vòng chăn bông ấm áp chẳng hiểu thế nào mà tôi lại có hình dung đến bước chân lẫm chẫm của thằng bé In 10 tháng tuổi, cháu nội ông Pờ Dần Sinh. Rét này đã thấm gì. Rét ở Sín Thầu mới thực là rét. Nhớ cái hôm đầu tiên lên chơi vớt Tết của người Hà Nhì ở Mường Nhé. Trời đêm vùng cao hôm ấy rất sáng. Tôi thấy cả biển mây nặng trịch dưới chân núi. Cái lạnh như lao sầm vào ngực. Tôi nhìn Pờ Hùng Sang, trong anh như tỏa ra sinh lực tràn trề.

Trời rét thế mà mấy đứa trẻ con ở Sín Thầu, quần áo mong manh, đi chân trần trên đất lạnh. Nhất là thằng cu In cháu ông Sinh, trừ những lúc ăn cháo có người ngồi cạnh bón cho, còn lúc thường nó thơ thẩn chơi trong nhà, trong cái sân láng xi-măng rộng đến hàng trăm mét vuông. Hỏi người nhà sao để nó tự do vậy, bà nội nó cười, bảo: Trẻ con kệ nó. Mấy thằng chú xen vào nói đỡ: “Được chọn lọc tự nhiên rồi, nó khỏe lắm”. Cái sức khỏe của người vùng cao có thể nói là thần kỳ, họ làm được những việc tưởng như sức người thường không kham nổi.

Đường nhựa đã mở đến bản Tả Cố Khử.

Chuyện là thế này. Ngày trước, đường lên Sín Thầu không có, người từ Mường Nhé muốn đi vào phải gửi xe ở Chung Chải cách xa chừng 35 cây số. Thời mới rộ lên cái máy phát điện thả suối, có ánh sáng điện, bà con phấn khởi lắm, ra huyện, ra tỉnh sắm đồ điện tử. Thôi thì cái đài, cái loa không nói làm gì, đằng này có anh bê cả một cái ti vi 21 inch đi bộ 35 cây số đường rừng. Nghe chuyện đó nhiều người kêu lạ, mấy tay thanh niên cười: Ăn thua gì, có người còn cõng một cái tủ lạnh 150 lít lên cơ. Khách trợn mắt kinh ngạc. Pờ Hùng Sang vỗ vỗ vào bộ bàn ghế bằng gỗ gụ nói: Đây, như cái bộ này, bố em cõng từ Mường Tè về đây. Mường Tè cách Sín Thầu 150 cây số, đường mòn xuyên rừng, thời trước mỗi lần đi cũng phải mất 4 ngày. Ôi chà chà...

Cách đây mấy năm, anh bạn tôi cũng đã lên Sín Thầu, cũng đi bộ từ Chung Chải. Đi từ 8 giờ sáng đến xế chiều mới tới nơi. Anh xác nhận, đường ngày xưa đi khổ vô cùng, mùa mưa, nhiều đoạn phải bơi. Nói chung là vào tới nơi thì tơi tả. Đến suối Mo Phí, nhìn thấy Pờ Hùng Sang đang đánh cá bên kia bờ, hai anh em xúc động quá, rưng rưng không nói nên lời.

Pờ Hùng Sang, Bí thư Huyện đoàn Mường Nhé là một anh chàng vui tính. Quá nửa đời trai trẻ của anh sống ở Hà Nội, học đủ các thứ trường nội trú, báo chí rồi chính trị cao cấp. Mỗi bận nghỉ học về quê gặp đám thanh niên từ miền xuôi đi du lịch bụi (giới xì-tin gọi là đi phượt) đến ăn nhờ, ở đậu, anh hay giả vờ ngô nghê hỏi: Ơ, thế cái bản Hà Nội có to không? Đám thanh niên dưới xuôi, vốn thường trực có cái ý nghĩ rằng người dân cái xứ biên viễn này lấy đâu ra cơ hội đặt chân xuống Hà Nội, nên không tiếc lời ca tụng. Nào nhà tầng, nào đường nhựa, nào là cầu vượt, xe đông... nhưng giấu tiệt mấy chuyện tắc đường, bụi bặm, giá cả đắt đỏ... Pờ Hùng Sang chỉ cười. Rồi mời rượu từng người, chúc mừng “cái bản Hà Nội” to hơn cái bản Tả Cố Khử. Hẳn nhiên là Pờ Hùng Sang chẳng bao giờ khoe rằng anh đã từng ở đó mười năm có lẻ. Vì có lần một anh “dân phượt” khoe rằng lên A Pa Chải có “đồng chí thổ dân” hay lắm, lên thăm “mốc số 0” thì bảo nó dẫn đi. Vì cái sự háu táu đấy mà nhiều “dân phượt” khác đến xã Sín Thầu bị chưng hửng. Vì “em nó còn đi học dưới xuôi, chưa về”!

Mạ Gió Tư, tấm gương điển hình kinh tế hộ gia đình của huyện Mường Nhé.

Sín Thầu theo một số người nói nghĩa là “Vùng đất mới”. Vì cái chữ Sín nghĩa là mới, còn chữ Thầu có thể là chữ Đầu theo cách phát âm của người Hà Nhì. Sín Thầu là cái “Đầu mới”, hay đất mới, đều đúng. Hỏi mấy người già, cũng bảo: Xã này là xã mới, trung tâm xã đóng ở Tả Cố Khử. Tả Cố Khử cũng chỉ mới được thành lập từ những năm 1969, 1970. Tả Cố Khử đáng ra phải viết là Tả Kố Khử theo phiên âm của người Hà Nhì mới đúng. Song viết vậy, nhiều người từ xuôi lên lại quen miệng đọc thành Tả Kho Khừ. Mà Tả Kho Khừ thì chẳng có nghĩa gì cả. Còn Tả Cố Khử nghĩa là đường đi tắt lớn. Ngày xưa, đúng ở đây có tuyến đường lên A Pa Chải, qua đoạn này, họ thấy một triền đất thấp hợp lưu của ba con suối Mo Phí, Chang Xín Chái và Y Ma Hù tạo thành một thung lũng bằng phẳng rất đẹp. Bao quanh có rừng nguyên sinh, có rất nhiều cây chò chỉ, mọi người thường nghỉ chân và nói rằng đường rừng đi tắt mà rộng lớn quá. Gọi nhiều mà thành tên.

Cái tên bản Tả Cố Khử chắc có từ trước thời đánh Pháp. Vì chuyện bộ đội, dân công đi đánh Pháp, tiễu phỉ đã thấy nhắc đến địa danh này. Khoảng những năm 1950, Tả Cố Khử được sử dụng như một binh trạm. Mấy người già vẫn còn nhớ ngày bộ đội về, dựng kho, dựng lán trại, đưa vào cất giữ những dây đạn sáng choang màu đồng.

Thời đó, phỉ lộng hành, dân phải trốn chạy. Đến năm 1952, 1953 bắt đầu có bộ đội về, phỉ chạy ngược sang biên giới. Dân yên một thời gian. Đến năm 1955, sau chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, bộ đội rút về xuôi, phỉ lại lộng hành. Lúc bấy giờ mới có chủ trương lập xã để huy động nhân dân, thành lập các phân đội dân quân du kích. Một trong những vị chủ tịch xã đầu tiên là cụ Pờ Pố Chứ, thân sinh của ông Pờ Dần Sinh, ông nội của Pờ Hùng Sang. Cụ Chứ làm chủ tịch nhưng lại không biết chữ, làm việc rất khó. Cụ Chứ cho người con đầu là Pờ Xi Tài, rồi con trai thứ hai là Pờ Gia Tự đi học. Sau này chỉ có Pờ Xi Tài về làm cán bộ ở Sín Thầu, còn Pờ Gia Tự theo bộ đội, vào miền Trung, Tây Nguyên đánh Mỹ, rồi bị thương, sau về làm cán bộ ở ngành lao động thương binh, xã hội tỉnh. Cũng nhờ cái sự nhìn xa trông rộng của cụ Chứ mà dần dần con cháu họ Pờ cũng như nhiều dòng họ khác ở Sín Thầu không quản ngại đường xa đi học thêm đông. Đến nay, lớp cán bộ mới đều có trình độ và được đào tạo bài bản, nhưng đó là chuyện của những năm sau Đổi mới.

Đến nay, Sín Thầu đã có 6 bản dân cư với 243 hộ, bằng 1.217 nhân khẩu, diện tích tự nhiên là 16,5 nghìn héc-ta. Mật độ dân cư đó có thể nói là thưa thớt. Ngày xưa còn thưa thớt hơn vì chỉ có 3 bản chính là A Pa Chải, Tá Miếu, Tả Ló San. “Văn minh thương nghiệp” thời trước đổi mới chỉ có ở A Pa Chải, đến nay vẫn còn dấu tích là một cái nhà kho phân phối hàng thương nghiệp. A Pa Chải cách trung tâm Sín Thầu 8 ki-lô-mét về hướng tây. Thời xa xưa, A Pa Chải khá sầm uất với 6 dòng họ chính của người Hà Nhì sinh sống. Cái tên A Pa Chải, có nghĩa là bản ở bên trái. Bên trái đây là bên trái của suối Mo Phí, dòng suối chảy từ biên giới về. Thời đó, người dân muốn mua viên đá lửa, hộp cao sao vàng, cây kim, sợi chỉ cũng phải đi lên A Pa Chải. Ngược lại, đến kỳ nhà nước thu thuế, dân cũng phải đi lên đây để nộp sản. Nói chung là bất hợp lý về đường đi lối lại nhưng vì các khu dân cư khác còn khó đi hơn nên phải để vậy. Đến năm 1969, cụ Pờ Pố Chứ vận động người dân từ Tả Ló San về Tả Cố Khử xây dựng bản mới thì hoạt động thương nghiệp mới lui về phía dưới này. Chuyện lập bản mới cũng là một kỳ tích của cán bộ xã Sín Thầu, ông Pờ Dần Sinh còn nhớ rõ.

Nếu chiếu theo tập quán canh tác của bà con thì có thể thấy người Hà Nhì không có truyền thống ở trên đỉnh núi cao, cách xa nguồn nước như hoàn cảnh ở Sín Thầu ngày trước. Lý do đẩy người Hà Nhì lên cao rất đơn giản nhưng có lẽ là ít người biết, đó là do bệnh sốt rét. Sốt rét - người dân nói: nó còn ác hơn con ma rừng, bị nó ám chỉ có chết. Thời đó, người dân còn chưa biết trên đời có loại thuốc là ký ninh, người bệnh phải ăn con giun đất, uống nước giải của con lợn sề, ăn phân con gà mà bệnh không dứt. Sốt rét ám ảnh dân Hà Nhì ở Sín Thầu. Lúc cụ Chứ vận động mọi người: “Bệnh sốt rét tuy đáng sợ, nhưng tôi đã được bộ đội hướng dẫn rồi, phải diệt con muỗi, phát quang bụi rậm, diệt con bọ gậy. Bộ đội còn cho tôi cái thuốc, trị bệnh sốt rét”. Dân bản cười trừ, nửa tin nửa ngờ. Bản Tả Ló San (theo tiếng địa phương nghĩa là vùng đất mát mẻ ở trên cao) có nhiệt độ trung bình thấp, mát mẻ, ít muỗi nhưng điều kiện sinh sống rất khó khăn. Phía dưới, Tả Cố Khử gần ba con suối, đất tốt lại tiện đường đi lại. Thời đó, như người già vẫn nhớ và kể lại, suối Mo Phí nhiều cá đến độ người ta dùng ống tre cũng đơm được cá, con nai con hoẵng nhởn nhơ chẳng biết sợ người. Lúa tốt bời bời, cấy một thửa con con cũng đủ ăn cả năm. Cụ Chứ thấy cái lợi đó muốn đưa toàn bộ bà con xuống nhưng mọi người vẫn e sợ. Cụ Chứ đưa gia đình xuống trước, làm lúa mấy vụ đều thắng lớn. Cụ dựng căn nhà gỗ nhìn ra suối, con muỗi con vắt không có bụi cây, nước tù cũng ít sinh sôi nảy nở. Đến mùa thu lúa năm sau, cụ lại lên vận động bà con, lần này cụ có thêm thành quả lao động là thóc lúa, là đàn gia súc, gia cầm để minh chứng. Bà con phấn khởi nhưng vẫn còn e ngại. Cụ Chứ đến từng nhà vận động, họ đồng ý xuống thấp, nhưng lại viện cớ không có sức di chuyển. Cụ Chứ cười: Chuyện đó có khó gì? Ngày hôm sau, cụ tập hợp lực lượng thanh niên xã, lại nhờ bộ đội giúp sức. Lần đầu di chuyển được 6 hộ, đến các năm sau cả 19 hộ trong bản Tả Ló San thời đó mới kéo nhau “hạ sơn” xuống làng mới hết. Cuộc sống từ đó sung túc dần thêm.

-------------

(Còn nữa)

Bài và ảnh: LÊ ĐÔNG HÀ