Bài 2: Gieo chữ
QĐND - Hồi mới về thung lũng Đắk Ngo, chỉ có khoảng 30/1986 người Mông biết nói tiếng phổ thông. Ngay già làng Hạng Sào Vảng từng làm chủ tịch UBND một xã ở tỉnh Lào Cai cũng nói: “Bây giờ mình mất hết cái chính tả rồi. Viết chữ không được đâu à”, thì làm sao những người dân bình thường biết chữ. Bộ đội Trung đoàn 720 đến hướng dẫn kỹ thuật thâm canh, chăm sóc cây trồng và thu hoạch mùa màng, người dân cứ lắc đầu: “Chư pâu” nghĩa là “không biết”. Anh em phải áp dụng phương pháp “cầm tay, chỉ việc”, làm đi làm lại nhiều lần bà con mới hiểu.
Dạy chữ cho người lớn đã khó, dạy chữ cho các em nhỏ còn khó gấp nhiều lần. Mấy thầy giáo, cô giáo người Kinh giảng bài ở các lớp mẫu giáo, bọn trẻ con cứ nhìn nhau chẳng hiểu gì cả. Không biết cái chữ của Bác Hồ, làm sao mà sáng cái đầu, cái bụng ra được. Trung đoàn trưởng Vũ Văn Mài xuống 4 bản Mông hỏi các già làng: “Con gái Mông những ai biết nói tiếng phổ thông?”. “Có mấy đứa nói được, nhưng chưa viết được” - Già làng Dương Văn Phông ở Đội 4 trả lời. “Để mình chọn cho họ làm cô giáo mầm non”. Ít hôm sau, cô gái Mùa Thị Rợ trở thành cô giáo mầm non dạy ngay ở cầu Đội 4. Cô làm phụ giảng cho cô giáo Thu Hằng. Cô giáo Hằng giảng bài bằng tiếng Kinh, thì cô giáo Rợ “dịch” lại bằng tiếng Mông cho học sinh nghe. Hai cô giáo người Kinh và người Mông cứ múa hát, đối đáp với nhau, giúp các em nói được tiếng của Bác Hồ, viết được chữ của Bác Hồ. Đấy là những em nhỏ được học mẫu giáo từ đầu. Còn dạy các em từ 9 đến 13 tuổi thì vất vả hơn nhiều.
 |
| Cô giáo Nguyễn Thị Mến dạy học sinh người Mông. |
Ở khu dự án KTQP Đắk Ngo, người Mông nhắc nhiều đến cô giáo Nguyễn Thị Mến. Anh Sùng Dũng Di bảo: “Cô giáo Mến là bông hoa của núi rừng đấy. Là người góp phần gieo chữ cho bản Mông mình đó”. Gặp Mến dạy học ở hội trường của Đội 6, được nghe cô kể chuyện càng thấy rõ nỗi gian truân, trăn trở của sự nghiệp trồng người ở đây. Và tôi mới hiểu vì sao người Mông và bà con trong khu dự án KTQP quý cô đến như vậy. Tốt nghiệp Trường Đại học Quy Nhơn, tình nguyện đến Tây Nguyên dạy học, ai cũng bảo Mến khùng nên mới đến cái nơi “khỉ ho, cò gáy”, nghèo khó và cô quạnh này.
Ở đây có một Trường Tiểu học Kim Đồng và một trường phổ thông cơ sở. Lớp hầu như nằm rải rác ở các đội sản xuất, có lớp cách nhau hơn 4km. Ngày đầu đứng lớp, học sinh tròn xoe mắt nghe Mến nói. Đôi khi chúng thì thầm với nhau bằng tiếng Mông, rồi lại che miệng cười tủm tỉm. Mến hỏi học sinh nữ tên Vừ Thị Nụ: “Nhà em có đông người không?”, cô bé nhìn chằm chằm vào mắt cô giáo bật ra tiếng nói: “Ch…ư... p..âu”. “Em nói bằng tiếng phổ thông cô nghe nào”. “Chư pâu” - Nụ lắc đầu e sợ. Hỏi thêm mấy học sinh nữa, chúng đều trả lời Mến như vậy. Cô giáo trẻ buồn mênh mang. Nhìn những gương mặt ngây thơ, lấm lét, pha chút tội nghiệp, Mến lắc đầu, thở dài.
Đêm ấy Mến không sao ngủ được. Bây giờ cô đã hiểu tại sao một số đồng nghiệp đến Đắk Ngo đã bỏ đi. Một nơi núi rừng đìu hiu, học sinh hầu hết chưa nói được tiếng phổ thông, giáo viên phải ở nhờ nhà dân, ăn cơm với cá khô thì làm sao gắn bó được? Có lẽ mình cũng nên rời Đắk Ngo thôi. Nhưng lạ quá. Mỗi khi ý nghĩ ấy chỉ hơi lóe lên thôi, thì Mến cảm giác như có hàng chục, hàng trăm đôi bàn tay của học sinh người Mông níu chặt lấy mình. Ở đâu đó vang lên những giọng nói: “Cô giáo ơi, hãy ở lại với chúng con. Chúng con cần cái chữ lắm. Người Mông cần cái chữ lắm…”. Rời mảnh đất này mà đi thì quá dễ. Nhưng ở lại gắn bó với nó thì... Mến ôm đầu, bóp mắt rồi lại nắm chặt hai bàn tay. Tiếng gà gáy trong bản Mông báo trời đang chuyển về sáng. Cô vén màn bước ra khỏi giường đi về phía góc nhà thắp nến. Mến đặt cuốn giáo án lên chiếc hòm sắt đã cũ, cắm cúi soạn bài cho buổi lên lớp ngày mai.
*
* *
Những tháng đầu, Mến không dạy theo chương trình, mà chú trọng dạy các em nói tiếng phổ thông kết hợp với dạy chữ cái. Học sinh không hiểu, cô dạy bằng ký hiệu. Nhìn cô giáo đứng trên bục giảng, học sinh tưởng đó là một diễn viên múa. Đôi tay mềm mại như đôi cánh bướm, đôi chân uyển chuyển, gương mặt đầy biểu cảm cùng giọng nói như tiếng hót của chim họa mi. Một số chàng trai đi qua nhìn thấy, lại ngỡ Mến giống hệt một thiếu nữ Mông đang múa hát theo tiếng khèn gọi bạn. Dạy học sinh phát âm, đôi môi Mến uốn lượn, truyền cảm, hé nở như một nụ hoa đón ánh nắng mặt trời. Cô giáo trẻ giúp học sinh bật ra những tiếng “A, B, C, G, H, M…”. Nếu các em chưa hiểu bài bằng ký hiệu, Mến lại trở thành người họa sĩ, vẽ lên bảng những hình ảnh sống động, đầy ngôn ngữ của tình người.
... Vào một buổi sáng chủ nhật, khi Mến đang chuẩn bị đi dự đám cưới một người bạn, thì có tốp hơn 10 em học sinh chạy đến nhà. Nhìn thấy cô chúng đồng thanh nói: “Trời ơi! Hôm nay cô giáo đẹp như một nàng tiên”. Mến sững người. Học sinh của cô nói được câu ấy từ bao giờ vậy? Mến ôm từng học sinh vào lòng, nước mắt trào ra. Cô nói trong tiếng nấc: “Các con ơi! Cô yêu các con lắm”. Học sinh của cô biết nói tiếng phổ thông rồi. Những chủ nhân tương lai của khu dự án KTQP đã sáng cái đầu ra rồi. Những cái tên Vàng A Tủa, Thào Thị Ban, Vừ Văn Sự, Chang Thị Lan, Hạng Thị Mai, Lý Văn Du… ba tháng trước còn xa lạ, ngập ngừng, nay chúng trở nên thân thiết hơn bao giờ hết. Cô như đang bay trên đại ngàn. Và những học sinh người Mông bé bỏng cũng bay theo như những vì tinh tú.
*
* *
Người Mông có câu: “Người khôn nghe tiếng nói, người tốt xem nụ cười”. Tiếng nói, nụ cười của cô giáo Nguyễn Thị Mến làm các bản Mông ở Đắk Ngo phải ngất ngây, yêu quý. “Cái khôn, cái tốt” ấy còn lan nhanh vào các gia đình trong khu dự án KTQP. Người ta đồn: “Cô giáo Mến yêu học sinh như con đẻ của mình. Thế cô ấy mới đi xin cơm cho học sinh ăn”. Chuyện là như thế này. Nhà cậu bé Vừ Văn Sự rất nghèo vì là gia đình sống ngoài dự án. Không ít hôm đến lớp mà em vẫn đói. Một buổi đang giảng bài, Mến chợt nhìn thấy cậu bé gục mặt lên bàn. Cô bước xuống nắm tay định gọi Sự dậy. Nhưng cô giáo hoảng hồn vì người cậu bé run lên cầm cập, mồ hôi túa ra. Mến cuống cuồng thoa dầu, bế Sự về căn nhà mình đang ở. Cậu trò thều thào nói với cô giáo: “Con đói lắm”. Ối trời. Mới trưa xong sao lại đói? Có lẽ nhà Sự hết gạo. Mến liền cầm bát chạy sang những nhà bên cạnh xin được một bát cơm về nhà. Nhìn cậu học trò cắm đầu, và lấy và để những hạt cơm vào miệng, mắt cô giáo ứa lệ…
Không cứ gì Trường Kim Đồng ở Đắk Ngo, mà nhiều trường học khác ở tỉnh Đắc Nông có học sinh người Mông theo học đều xảy ra tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng. Công việc nhiều, gia đình nghèo khó, khiến các em phải bỏ học để phụ giúp cha mẹ. Có em lớn tuổi, đi học bị các bạn trêu cũng bỏ học. Không ít học sinh từ 12 đến 15 tuổi nghe lời cha mẹ rời lớp về nhà cưới vợ, lấy chồng. Chẳng bao lâu, các em đã trở thành những ông bố, bà mẹ bất đắc dĩ. Khi có học sinh bỏ học, Mến buồn lắm. Buồn như cô vừa mất đi một thứ gì rất quý giá. Nhưng cô không chịu khuất phục. Hễ có học sinh nào vắng mặt hai, ba buổi học là cô đến tận nhà để tìm hiểu, vận động các em đến lớp. Thấy bố mẹ vất vả, em Chang Thị Lan đã bỏ học để đi làm rẫy. Mến đội nắng mưa đến nhà Lan cả chục lần mà em vẫn không chịu đến lớp. Không nản. Chiều nào Mến cũng đi bộ đến dạy chữ cho Lan tại nhà. Cô nói với bố mẹ Lan nếu không biết chữ thì không bao giờ thoát được cái đói nghèo. Mến kiên trì thuyết phục đến nỗi bố em Lan phải nói với con: “Cô giáo thương mày lắm rồi đấy, phải đi học thôi Lan à”. Hôm sau, Lan đã đến lớp với bạn.
*
* *
Tôi trở lại Đắk Ngo khi các lớp học ở đây đã bước vào năm học 2010-2011. Năm qua, trường Kim Đồng có nhiều em đạt danh hiệu học sinh giỏi, hơn 98% học sinh được lên lớp. Cách xa lớp cô giáo Mến cả 100m, mà tôi vẫn nghe thấy tiếng hát của học sinh: “Em là búp măng non, em lớn lên trong mùa cách mạng…”.
Vẫn dáng dấp như một nghệ sĩ múa, vẫn ánh mắt rạng nỡ niềm tin yêu, chứa chan với người, với nghề, cô giáo Nguyễn Thị Mến làm cho những con chữ, phép tính ngày càng tràn đầy vào nhận thức của trẻ thơ. Sự ươm mầm ấy, quý như đất đai, cây rừng ở nơi cuối dãy Trường Sơn này.
Đắk Ngo tràn ngập hoa cúc quỳ vàng xộm thi nhau đua nở. Từng tốp học sinh của Trường Kim Đồng nô đùa trên lớp như những chú ong bay đi tìm mật hoa. Nhìn cảnh tượng thanh bình, sinh sôi, nẩy nở, tôi thấy Đắk Ngo như sắp có những thầy, cô giáo, bác sĩ hay kỹ sư của người Mông đến nơi rồi.
Bút ký của LÊ PHI HÙNG
Bài 1: Về với Bộ đội Cụ Hồ
Bài 3: Họ hàng của người Mông