QĐND - “Bố mình đã đi về với ông bà, tổ tiên rồi. Thế là, ý định của anh em mình đành dang dở” - Thiếu tướng Trần Việt Thắng, Phó chính ủy Tổng cục 2 gọi điện và thông báo ngắn gọn đến tôi về sự ra đi của Thiếu tướng Trần Văn Phác trong buổi chiều tà cuối mùa thu khiến tôi không khỏi giật mình. Dẫu biết rằng, khi người già đã ở tuổi 86 như “chuối chín cây”, một cơn gió vô tình của tạo hóa cũng có thể lay rụng bất cứ lúc nào, nhưng sao tôi bỗng thấy sự mất mát thật to lớn, đột ngột.
Là thế hệ phóng viên trẻ của Báo Quân đội nhân dân, lần đầu tiên tôi được biết đến Thiếu tướng Trần Văn Phác là qua tác phẩm “Không còn đường nào khác” dưới bút danh Trần Hương Nam, ông viết về nữ tướng Nguyễn Thị Định và phong trào “Đồng Khởi” của nhân dân Bến Tre năm 1959. Bị cuốn hút bởi cuốn sách ấy, tôi tò mò tìm hiểu mới biết bút danh Trần Hương Nam do ông tự đặt cho mình được ghép bởi ba cái tên (Tám Trần là bí danh của ông khi vào Trung ương Cục Miền Nam hoạt động, Hương là tên người vợ yêu quý của ông, Nam là tên người con út của ông). Đi sâu tìm hiểu thêm về ông, tôi mới biết ông từng đảm nhận nhiều trọng trách: Ủy viên Trung ương Đảng hai khóa liền (khóa V và VI), Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Văn hóa, đại biểu Quốc hội 3 khóa liên tục (VIII, IX và X). Nhưng hơn hết, tôi đã được hỏi chuyện ông về thời kỳ ông là Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân. Với bạn đọc cả nước, người ta thường nhắc đến ông với tư cách một vị tướng viết văn. Những tập truyện ký như “Còn mãi với thời gian”, “Từ ngôi nhà số 4”, “Một mùa xuân rực rỡ”, “Từ mùa thu ấy”, “Trong khói lửa”... người đọc luôn cảm nhận được một nhân cách lớn từ người viết, vừa có bút pháp cụ thể, chi tiết mà rất khái lược của một nhà báo; vừa có sự uyển chuyển, tài hoa, linh hoạt của một nhà văn và hơn hết là tính chiến đấu của một nhà cách mạng thế hệ đầu, trưởng thành dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
 |
| Thiếu tướng Trần Văn Phác và vợ hồi trẻ. Ảnh do gia đình cung cấp. |
Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, do hạn chế của bản thân, tôi không dám viết gì về sự nghiệp của ông. Để làm được việc đó, chắc chắn cần có sự vào cuộc của các nhà khoa học lịch sử, các nhà nghiên cứu văn hóa. Tôi muốn viết chút ít thông tin về ông mà tôi từng được biết, được rung động và khâm phục. Sinh ra trên miền quê nghèo Yên Mỹ (Hưng Yên), từ nhỏ, cậu bé Phác đã nổi tiếng học giỏi, nhất là môn Văn, nhưng vì gia cảnh túng bấn, ông phải vừa đi học, vừa làm gia sư kiếm tiền phụ giúp gia đình. 19 tuổi, Cách mạng Tháng Tám nổ ra, người thanh niên Trần Văn Phác đã làm đội trưởng Đội tự vệ chiến đấu, tham gia khởi nghĩa chiếm huyện lỵ Yên Mỹ. Ông từng kể: “Ngày 16-8-1945, tôi dẫn đầu đội tự vệ, tiến lên áp sát cổng đồn. Anh em thay nhau gọi loa một chập nhưng bên trong vẫn yên ắng. Chúng tôi liền bắn mấy phát súng cảnh cáo, rồi quần chúng reo hò ào lên, phá cổng, phá đồn mãnh liệt. Tới lúc đó, bọn lính khố xanh mới chịu mở cổng xin hàng. Thế là quê tôi, Cách mạng đã giành được chính quyền về tay nhân dân mà không phải đổ máu”.
“Điều gì dẫn ông đến con đường viết văn, viết báo?”. Lần được trò chuyện với ông, tôi đã mạnh dạn hỏi như vậy. Ông kể: Hồi kháng chiến chống Pháp, thấy ông có khiếu văn chương nên khi đang là chính trị viên đại đội, ông được cấp trên điều về làm Thư ký tòa soạn báo “Khu 2 kháng chiến”. Chính ủy Khu 2 lúc đó là đồng chí Văn Tiến Dũng, đã giới thiệu ông đến gặp đồng chí Xuân Thủy, lúc ấy là Tổng biên tập Báo Cứu quốc để học nghề. Từ những bài học ban đầu của thầy Xuân Thủy, nghề báo, nghề văn đến với ông như một lẽ tự nhiên, thúc đẩy ông cầm bút ngay cả khi ông đã giữ những trọng trách của Đảng, Nhà nước và quân đội giao cho. Ông từng là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân, rồi từng có mặt trong hội nghị đầu tiên bàn về việc thành lập Hội Nhà văn Việt Nam. Vậy mà, cho đến lúc nghỉ hưu, ông chưa từng có thẻ hội viên nhà văn cũng như nhà báo. Hỏi ông về chuyện này, ông bảo: Vì yêu cầu công tác mà mình cầm bút, và cũng từ chuyện này mới thấy, không phải cứ có cái thẻ nhà văn, nhà báo thì mới có thể viết được!
Đúng là, ông chỉ cầm bút khi thấy rằng việc nước, việc quân cần phải có bài viết của mình. Khi tôi hỏi chuyện ông về tác phẩm “Không còn đường nào khác”, ông cho biết: Cuốn đó, ông viết theo phân công của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Năm 1965, anh em văn nghệ sĩ và báo chí của Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam “bình bầu” rằng: “Chỉ có Tám Trần viết về chị Nguyễn Thị Định và phong trào Đồng Khởi là hợp nhất”, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã suy nghĩ và cho ông tạm nghỉ một số việc để tranh thủ gặp chị Định, lấy tư liệu và viết tác phẩm này. Có lẽ, cũng từ suy nghĩ “tất cả vì nhiệm vụ cách mạng” nên khi đã là lãnh đạo Bộ Văn hóa, ông đã trăn trở viết nên những tác phẩm nghiên cứu, lý luận như: “Sự nghiệp văn hóa trong chặng đường trước mắt”; “Mấy vấn đề cấp bách về công tác văn hóa, nghệ thuật”... mà đến hôm nay, nhiều nhà nghiên cứu văn hóa vẫn đánh giá là rất có tầm chiến lược nhưng cũng còn nguyên tính thời sự.
Ba năm gần đây, sức khỏe của ông yếu đi rất nhiều. Chi phối đến cuộc sống của ông nhiều hơn cả là việc chăm sóc người vợ yêu quý của ông, bà Lê Thị Quế Hương cũng bị bệnh nặng và mới mất trước ông một tuần. Chính vì thế, trong dự định của ông, còn có rất nhiều ấp ủ về những giải pháp xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; cũng như ông đã hứa sẽ chia sẻ cho tôi thật nhiều kỷ niệm trong những chặng đường kháng chiến. Có lần, ông từng bảo: “Ông có rất nhiều tư liệu để chia sẻ với cháu trên trang Tiếp lửa truyền thống của Báo Quân đội nhân dân. Khi bà nhà khỏe lại, chúng ta sẽ có nhiều việc để làm”.
Vậy mà, ông đột ngột ra đi theo người vợ yêu quý của mình ở miền cực lạc. Thương tiếc ông, khâm phục ông, tôi xin viết những dòng chân thành này, như một nén tâm nhang thương tiếc tiễn ông về với thế giới người hiền.
NGUYỄN HỒNG