Người ta thường gọi anh là họa sĩ Trần Tuy. Nhưng thực ra, trong suốt 38 năm làm nghề mỹ thuật, anh là nhà điêu khắc, nhà đồ họa, nhà trang trí… Ở mấy môn mỹ thuật ấy, anh đều ở vị trí “nhà”. Anh người Yên Mỹ (Thanh Trì, Hà Nội), ở cái làng đất bồi ven sông, nhiều phong cảnh đẹp. Xưa đây cũng là làng kháng chiến nổi tiếng. Mẹ anh, thời trẻ là một cô gái nuột nà, chuyên ngồi làm “quân hoa” cho các bàn cờ người trong những ngày hội hè, đình đám. Bà đã lấy một chàng nho sinh viết chữ đẹp rồng bay phượng múa rồi sinh ra anh. Anh mê vẽ và trang trí từ thuở bé.
 |
Họa sĩ Trần Tuy bên bức tượng Mỵ Châu phác thảo. |
Anh tốt nghiệp Trường đại học Mỹ thuật công nghiệp khóa đầu tiên vào những năm 1959-1963 với khoa điêu khắc. Những môn học khác anh cũng được xếp loại “ưu”. Vào nghề, anh không chỉ chuyên điêu khắc mà cũng không ưu tiên riêng loại hình nào, không bắt chước, không nặng lòng về một trường phái nào. Anh có ánh sáng và màu sắc của riêng mình. Anh đi sâu vào đối tượng, cảm nhận và bùng nổ sáng tác.
Trần Tuy trình làng bằng kiến trúc khu mặt tiền nhà Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, bố trí, trang trí nội và ngoại thất các phòng giới thiệu về các đời Lý, Trần. Ở phương diện này, anh đã tạo ra được một không gian treo lơ lửng, có chiều sâu. Điều này không phải ai cũng làm được. Phải có tài về nhiều mặt mới làm nổi. Ngay sau đó anh được trao một công trình rất nặng nề: sáng tạo ra những mảng điêu khắc, những diềm hoa trang trí cho hòm kính và quan tài đặt thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có nghĩa là phải trang trí làm sao để gây được một không khí trang nghiêm, có hơi thở thiêng liêng, có thời gian ngừng trôi lại có thời gian của cuộc sống v.v.. Lại phải làm cho công trình toát lên cái ý nghĩa:
Kính Người an giấc ngàn thu
Câu thơ Việt Bắc, lời ru Tháp Mười…
Trần Tuy đã làm được điều đó.
Năm 1986, Trần Tuy được cử sang Lát-vi-a (Liên Xô trước đây) dự trại sáng tác quốc tế về tượng và huân chương. Ở đây, anh đoạt giải nhất với nhóm tượng gồm 10 nhân vật (nhóm tượng “Tình yêu”).
Trần Tuy đi nhiều, sáng tác nhiều và đã có nhiều công trình như những bức phù điêu ở Nhà hát Chèo Kim Mã, những bức trang trí hình Rồng ở cầu Thăng Long, phù điêu trang trí phòng họp Bộ Quốc phòng... Anh đã dựng tượng đài Lý Tự Trọng ở Hà Tĩnh. Trong các tác phẩm đó, những đám mây, chân trời, vùng sáng... đều cuồn cuộn những cung bậc và nhịp điệu.
Về tranh tĩnh vật, Trần Tuy được nhiều người lưu ý qua những bức: “Cà tím”; “Lọ hoa”; “Quả đầu mùa”… Đó là những bức tranh rất “ngon”. Chúng có nét thường ngày, có nét trừu tượng lại có giá trị huyền bí, có sự cân bằng, tĩnh lặng, ánh sáng và khát vọng…
Về tranh phong cảnh, Trần Tuy có mấy bức: “Hoa bên người”, “Cô gái chải tóc”; “Cô gái cầm bông hoa”… Các cô gái của Trần Tuy bâng khuâng, mơ mộng mà chân quê, có mơ, có thực… Tính đến giờ, Trần Tuy đã vẽ hơn 300 bức chân dung các danh nhân văn hóa, các nghệ sĩ, các bạn bè quen thuộc. Trong đó có chừng một nửa xứng đáng là những bức chân dung đích thực. Trần Tuy chú trọng cái thần, cái sâu xa bên trong của nhân vật với một rung cảm nhịp nhàng. Về sơn dầu, Trần Tuy có nhiều bức thành công với hình ảnh các cô gái vùng cao. Trong những bức họa này, anh đã dùng cả con mắt của nhà dân tộc học và niềm say sưa như ấp đồng mà vẽ nên. Về mặt đồ họa, Trần Tuy vẽ không biết mệt. Anh vẽ phụ trương, minh họa cho chừng 20 tờ báo và tạp chí trong nhiều năm, lại viết báo, viết phê bình nghệ thuật với tay nghề vững vàng.
Trần Tuy cần cù, khiêm tốn, dành cả cuộc đời mình cho nghệ thuật.
LÝ KHẮC CUNG