QĐND - Những năm gần đây, mọi người thường nhắc đến Đền thờ Đức Thánh Trạng hay Đền thờ Quan Trạng ở thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Đây là ngôi đền trên quê hương của Trạng nguyên khai khoa Lê Văn Thịnh - người đỗ đầu trong khoa thi Minh kinh bác học đầu tiên  của nhà Lý (mùa xuân năm 1075). Cách Đông Cứu không xa, có một nơi tôn Ngài là Thành Hoàng làng và thờ Ngài trong đình, đó là thôn Đình Tổ, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh...

Vinh quang và bi thương của cuộc đời Trạng nguyên Lê Văn Thịnh, đã từng là thầy dạy học của vua Lý Nhân Tông khi nhà vua mới 11 tuổi, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống rồi được cử làm Thái sư năm 1086 cho đến hôm nay, vẫn hiển hiện trên trang sử và cả trong những câu chuyện còn lưu trong dân gian.

Mặt trước đền thờ trạng nguyên Lê Văn Thịnh ở Đông Cứu, Gia Bình, Bắc Ninh. Ảnh: Internet

Sử cũ đã chép về công trạng của ông và cả về những ngày tháng ông bị đi đày trên Thao Giang, Phú Thọ nên chúng ta được biết rằng: Sau khi đại bại trong trận Như Nguyệt năm 1077, nhà Tống phải lui quân lên phía bắc chiếm châu Quảng Uyên (thuộc hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn ngày nay). Nhờ chính sách đấu tranh mềm dẻo của vua Lý Nhân Tông, năm 1079, nhà Tống phải trả lại đất hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, nhưng nhất định không chịu trả phần đất mà chúng đã cưỡng chiếm của thổ dân là Vật Dương và Vật Ác. Ở cương vị Thị Lang Bộ binh, năm 1084, Lê Văn Thịnh đã đến trại Vĩnh Bình đấu tranh kiên quyết với sứ giả nhà Tống về cương giới, đòi được phần đất đã bị chiếm gồm 6 huyện, 3 động. Lòng tham không bao giờ hết, người Tống vẫn tiếc hậm, tiếc hụi nên sau đó có thơ rằng: Nhân tham Giao Chỉ tượng/ Khướt thất Quảng Nguyên kim nghĩa là: Vì tham voi Giao Chỉ/ Bỏ mất vàng  Quảng Nguyên. Với chiến công có một không hai trên bàn ngoại giao này, vua phong cho ông chức Thái sư trong triều. 11 năm ở cương vị của mình ông đã là cánh tay phải của vua Lý Nhân Tông trong nhiều việc trọng yếu, nhất là trong cải cách triều chính, sắp xếp lại hàng ngũ quan chức, quản lý đất đai… Những việc ông làm được dân yêu nhưng bọn quan tham đố kỵ ghen ghét đã bày mưu hãm hại ông. Và quan đại thần đã bị nạn vào tháng 3-1096 với án hóa hổ giết vua trên hồ Dâm Đàm. Ông được vua tha tội chết và bị đày lên Thao Giang. Đại việt sử ký toàn thư ghi: “Mùa xuân tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết an trí ở Thao Giang”. Ở nơi lam chướng, cô đơn với bao tâm tư giấu kín trong lòng, ông vẫn làm tròn bổn phận, cho đến ngày đổ bệnh, ông lần tìm về quê hương. Nhưng ác nghiệt thay, về đến thôn Đình Tổ, ông đã mất không kịp nhìn thấy làng quê chôn nhau cắt rốn.

Hôm nay, lối nhỏ ra mộ ông đầy cây nghể trắng, cỏ dại... Ngôi mộ bao năm sè sè nấm đất, giữa đồng làng. Những năm gần đây, UBND xã Đình Tổ và nhân dân góp công đức đã xây cất khang trang hơn. Một chị nông dân thắp hương lễ tạ rồi quay ra nói với tôi: “Ngài thiêng lắm, dân làng ai có việc gì, cứ ra kêu cầu ngài đều ứng nghiệm”. Tôi kính cẩn thắp hương trước mộ Thái sư rồi sang đình làng.

Ngôi đình được dựng từ thời nhà Lý, nhưng chỉ còn một số nét hoa văn trên cột mang phong cách mỹ thuật thời Nguyễn. Cụ từ cho tôi biết: “Thời Pháp chiếm, giặc Pháp đóng bốt trên đê sông Đuống. Nó đốt trụi làng tôi, phá đình nên sau ngày hòa bình (1954), dân xã tôi vẫn chưa có điều kiện xây dựng lại. Năm 1993, Ban quản lý di tích được thành lập, chúng tôi mới từng bước tu sửa lại đình”. Hiện vật vô giá của đình chính là 11 sắc phong mà các vua phong cho Thành hoàng làng - Thái sư Lê Văn Thịnh. Cụ từ cho biết thêm: “Năm 1994, chúng tôi đã đưa  sắc phong ra Viện Hán - Nôm để cán bộ của Viện dịch, từ đó có thêm cơ sở để khẳng định công trạng của Ngài và năm 2003, 2004 cả đình làng Đình Tổ và đền thờ Lê Văn Thịnh ở Đông Cứu đều  được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia, sau đó được cấp kinh phí tu sửa đình. Chúng tôi mới chỉ tu sửa được từng phần thôi, còn nhiều việc phải làm để đình và chùa thành quần thể di tích trong khuôn viên còn rất sơ sài này”.

Theo lệ cũ, hằng năm cứ vào ngày 24 tháng Chạp, dân Đông Cứu sang  Đình Tổ góp giỗ. Hoành phi rực rỡ bốn chữ Thánh cung vạn tuế và đôi câu đối Lương triều Lưỡng sứ/ Khai quốc trạng nguyên, chính là lòng dân dành cho Trạng nguyên khai khoa của nhà nước Đại Việt triều Lý.

Nguyễn Quang Dũng