Đền Ngọc Sơn là một danh thắng-di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng của Thăng Long-Hà Nội, gắn liền với tên tuổi của Tiến sĩ Vũ Tông Phan, Hội trưởng Hội Hướng thiện. Ông dốc tâm sức vào việc xây dựng ngôi đền và văn bia Ngọc Sơn (1843), lưu lại cho hậu thế công trình kiến trúc-văn hóa tuyệt tác. Ông còn mở Trường Hồ Đình ở thôn Tự Tháp nên được gọi với cái tên mến mộ-ông Nghè Tự Tháp. Cùng với thần Siêu, thánh Quát, Vũ Tông Phan là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thi đàn Thăng Long cuối thế kỷ XIX, góp phần phục hưng văn hóa dân tộc.
 |
Tiến sĩ Vũ Tông Phan. (Họa sĩ Bảo Nguyên vẽ)
|
Vũ Tông Phan, tự Hoán Phủ, hiệu Đường Xuyên và Lỗ Am, sinh năm 1800 trên đất Thăng Long khi triều Nguyễn đang củng cố thế lực; đất nước đau thương trước họa tham nhũng, lộng quyền của bọn quan tham. Cảnh nhà bần hàn, Vũ Tông Phan theo cha là ông Tú Cửu dạy học ở các làng ven Thăng Long và xứ Đoài, cho đến khi đỗ Tú tài mới theo học cậu ruột là Tiến sĩ Phạm Quý Thích ở Thăng Long. Học cùng giảng đàn của Phạm Quý Thích, Vũ Tông Phan, Ngô Thế Vinh, Lê Duy Trung, Nguyễn Văn Siêu trở thành “một chiếu bạn bút nghiên” thân thiết và được thầy rèn giũa, hướng đạo tư tưởng cứu nước, giúp đời, giữ vững tiết tháo người quân tử.
Năm 1826, Vũ Tông Phan đỗ tiến sĩ và hăm hở mang chữ thánh hiền ra làm quan với tư tưởng “vi dân”. Nhưng rồi ông sớm nhận ra quan trường trong cảnh nhiễu nhương không hợp với khí chất thanh liêm của mình, cũng chẳng thể đem chữ thánh hiền để hành đạo như mong muốn. Sau 7 năm không hợp với cảnh cá chậu chim lồng, năm 1833, ông cáo quan về nếp nhà đơn sơ ở thôn Tự Tháp rồi dựng ngôi nhà 5 gian mở Trường Hồ Đình dạy học. Bao tâm tư của kẻ sĩ thời tao loạn, ông gửi gắm tâm huyết trong thơ:
Sáng tối trăm năm đều thế cả
Một đời thực-giả khỏi bàn tay
Hồ Gươm vườn nước đầy thanh hứng
Nghĩ dựng thư phòng gửi sớm hôm
(Ngẫu hứng ở nhà dạy học)
Ông đã cùng với các bạn chí cốt đồng chí hướng phục hưng văn hóa Thăng Long mở trường để đào tạo các sĩ tử có lòng yêu nước, giữ gìn văn hóa dân tộc. Ở ngôi trường nhỏ nhìn ra Hồ Gươm, “Bốn mùa nước xuân biếc/ Một mái Ngọc Sơn hồng” (Nguyễn Văn Siêu gửi Vũ Tông Phan) ông say sưa truyền thụ kiến văn và tư tưởng yêu nước. Học trò theo học ngày càng đông, nhiều người đỗ đạt như Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản, Lê Đình Diên, Cử nhân Đỗ Thực, Đỗ Duy Ninh, Nguyễn Huy Đức, Ngô Văn Dạng đều noi gương thầy giúp đời, cứu nước. Ông đã được vua Tự Đức ban cho bốn chữ “Đào thục hậu tiến” ghi nhận công lao đào tạo nhân tài cho đất nước. Ông còn sưu tập một số bài thi Hương, thi Hội năm 1846-1847 thành sách Thiệu Trị Đinh Vị khoa văn tuyển, sau khi ông mất, con cháu ông tập hợp tiếp các bài thi cho đến khoa thi năm 1877 đời Tự Đức rồi cho in.
Ý thức “nghĩa vụ người quân tử là lo cho dân”, ông tích cực tham gia các hoạt động văn hóa-xã hội. Ông soạn văn bia ghi sự tích Trưng Vương ở đền Đồng Nhân; văn bia ghi việc trùng tu miếu Hỏa thần; văn bia ghi việc sửa mới lại nhà thờ Tam Nguyên của họ Bùi ở ngõ Phất Lộc. Là Hội trưởng Hội Hướng thiện, ông đã dốc tâm sức vào việc xây dựng đền Ngọc Sơn (khởi công năm 1841), làm cho ngôi đền trở thành một trong những di tích và danh thắng đẹp nhất Hà Nội và cũng là trung tâm hoạt động văn hóa của các sĩ phu yêu nước thời đó. Năm 1843, ông soạn văn bia Ngọc Sơn đế quân từ ký, ghi lại việc Hội Hướng thiện cải tạo chùa Ngọc Sơn thành đền thờ Văn Xương đế quân. Sau đó, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đã cho trùng tu và dựng thêm một số công trình - đình Trấn Ba, cầu Thê Húc, đài Nghiên, tháp Bút tạo nên quần thể kiến trúc độc nhất vô nhị giữa trung tâm Thăng Long và trở thành danh thắng nổi tiếng, niềm tự hào của người Hà Nội.
Sau hơn 10 năm dạy học, năm 1849, ông giao Trường Hồ Đình cho con trai cả là Tú kép Như Trâm, lui về sống và dạy học ở Giang Đình thục, thôn Kim Giang gần Vân Đình (nay thuộc huyện Ứng Hòa) và biên tập thơ văn của mình, công việc mà ông yêu thích, hợp với sở nguyện khi các bạn thân thiết đã bị triều đình nhà Nguyễn hạch tội.
Tiếp theo Tô Khê tùy bút tập gồm những bài thơ sáng tác trước khi đỗ Cử nhân (1825), Vũ Tông Phan đã tập hợp những bài thơ ông viết sau 1825, nhưng chưa kịp xuất bản thì ông mất đột ngột ngày 26-6 năm Tân Hợi (1851). Yêu mến và thương tiếc ông, đầu năm 1852, các nhà in Hữu Văn Đường, Đa Văn Đường,Tự Văn Đường in lại bộ Cổ Văn hợp tuyển dày gần 1.400 trang (nhà in Hữu Văn Đường đã khắc in từ năm 1838). Làm tiếp những công việc dang dở của cha, Tú kép Như Trâm tập hợp bản thảo cha để lại thành quyển Lỗ Am di cảo thi tập.
Cùng với thần Siêu, thánh Quát, Vũ Tông Phan là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thi đàn Thăng Long cuối thế kỷ XIX. Nhớ ơn ông - nhà thơ, nhà văn hóa tiêu biểu, người thầy mẫu mực, Hoàng Giáp Nguyễn Tư Giản đã soạn bài ký ở nhà thờ thầy Vũ Lỗ Am khi dựng văn bia năm 1873: “Người đời thường nói: Chẳng nhọc nhằn vì cầu phú quý, chẳng buồn phiền vì nỗi nghèo hèn. Thầy ta như vậy đó; ơn tác thành của Tiên sinh bao la như hồ nước long lanh, tựa khói trăng bàng bạc. Vẫn y nguyên vậy. Ôi, tiên sinh là bất hủ”.
Nguyễn Quang Dũng