Những ai từng may mắn được tiếp xúc, nghe thầy Tạ Quang Bửu nói chuyện, giảng bài đều thấy ông là hiện tượng lạ từ sự học, lòng yêu nước, thương dân và con đường phục vụ tổ quốc.

Học không để... làm quan

Cậu bé Tạ Quang Bửu lên bảy đã ý thức rõ về lẽ sống từ nếp nhà, lại thông minh, học giỏi các môn Toán, Việt văn, chữ Hán, được vào tận Tam Kỳ, Quảng Nam thi, đỗ cao. Ngày ấy có một tổ chức khuyến học "phi chính phủ" tên là "Hội như Tây Du học" do Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài chủ xướng. Anh tú tài Bửu đã biết dựa vào mặt lợi của "Hội như Tây" để theo đuổi con đường "Không như Tây" của mình. Được học bổng sang Pháp đỗ cử nhân khoa học tại Đại học Soóc-bon Pa-ri (Sorbonne Paris), anh lại thi đỗ sang học Tổng hợp Ốc-xpho Luân-đôn (Oxford London) bên Anh quốc. Thời đó, ai trong đời được mang danh "cựu sinh viên" của các trường ấy đã đáng được người đời nể trọng lắm rồi.

Vợ chồng Giáo sư Tạ Quang Bửu tại vườn hoa nhà Quốc hội. Ảnh tư liệu, chụp năm 1968

Sức hấp dẫn của anh Bửu ẩn sâu ở phía sau: Nguồn tri thức cập nhật, cao nhất và hướng phát triển của nó, phải hết sức tranh thủ học, học thêm. Ở Sorbonne, anh dự giảng cả chương trình cử nhân và sau đại học về nhiều môn khác nhau, nắm chắc thêm các sinh ngữ Pháp, Anh, Đức, La-tinh, Hy Lạp cổ (sau này, tự học Trung văn, thuật ngữ tiếng Nga chỉ trong 3 tháng).

Về nước, tiếng vang "Tây học" của bộ óc Tạ Quang Bửu đã đến tai các quan bảo hộ và Nam Triều. Ông từ chối mọi gợi ý, lời mời giữ chức nọ, tước kia, tìm chân dạy tư ở Trường Thiên Hựu để truyền lại tri thức cho lớp trẻ nước nhà, thức tỉnh các em về trách nhiệm với gia đình, quê hương, đất nước. Và, với mình, ông tự nhận ra "lỗ hổng" "Đông học", đặt một chương trình nghiên cứu lịch sử nước Nam, Nho - Lão - Phật học, tinh hoa văn hóa dân tộc. Học, thấy cái hay của ông cha, càng muốn làm gì nữa thật nhiều cho Tổ quốc.

Tìm bạn

Khi du học, việc tập luyện thể dục thể thao, tham gia các hoạt động xã hội, sinh hoạt tập thể mới chỉ là nhu cầu tự phát, nay mang danh người thầy, trước thực trạng nước mất nhà tan với chính sách bần cùng hóa ngu dân của người Tây, ông đã mường tượng được một hướng đi cho tương lai là lợi dụng phong trào Hướng đạo Đuy-cu-roay (Ducoroy) do thực dân Pháp đưa vào Việt Nam từ năm 1930 để "ru ngủ" thanh thiếu niên bản xứ làm tay sai. "Dĩ độc trị độc" được chứ? Ngoài Bắc Kỳ, chắc hẳn nhà giáo Hoàng Đạo Thúy đã chớp lấy cơ hội này.

Với tấm bằng Trại trưởng huấn luyện xuất sắc toàn Đông Dương trong tay do Liên đoàn Hướng đạo thế giới cấp sau khóa huấn luyện ở Luân-đôn năm 1937, ông sẽ gây phong trào tại Trung Kỳ. Tên tuổi Tạ Quang Bửu về hoạt động này tại Pháp, Anh là một lợi thế: Tráng sĩ "An Nam mít" nhỏ thó rất thông minh, lanh lợi, luôn dẫn đầu các cuộc tranh cúp trong cả hai hoạt động: Hướng đạo sinh và thể dục thể thao, ở các giải trong trường của thành phố đều có tên Tạ Quang Bửu.

Tháng 6-1941, trên núi Mã Yên-Ninh Bình diễn ra cuộc gặp Thúy - Bửu đại diện hai trào lưu tiến bộ của Bắc và Trung Kỳ. Hai năm sau, 1943, Hoàng Đạo Thúy viết trong sách Trai nước Nam làm gì? như sau: Nước sẽ mạnh, đời sẽ đẹp vì có những thanh niên yêu nước, yêu nhà, yêu quê hương, tỉnh táo chống các tệ nạn cám dỗ, luyện rèn ý chí... Hai huynh trưởng thống nhất mở rộng Hội, lái mục đích hướng đạo đi vào giáo dục, phụng sự dân tộc công khai nhưng khéo léo, linh hoạt. Chẳng hạn, người Âu đặt tên đội, đoàn bằng các loài cây, thú rừng..., ta lấy tên lịch sử: Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa..., Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Lê Lợi...

Trong Tráng đoàn của mình thầy Bửu còn đi xa hơn: May đồng phục quần soóc, áo sơ-mi đều dùng hàng nội, nhuộm củ nâu, đội nón lá, áo thêu chữ V nội bộ hiểu với nhau là "Việt Nam chiến thắng" (Victorie), chỉ dùng tiếng mẹ đẻ...

 Với bà Kim Oanh, có một chuyện làm cô con gái gia giáo này rất ấn tượng, cảm tình ngay với anh bạn mới của cha là trời rét, chàng mặc chiếc áo len đem về từ nước Anh mà về quê gặp ông lão ăn mặc phong phanh rách rưới, chỉ dám xin mân mê cái áo lạ một tí thôi, chàng đã cởi ra mời cụ mặc thử... và biếu cụ luôn. Về sau, ăn ở với nhau đã năm mặt con, cái tình "mình vì mọi người" không còn là khẩu hiệu, mà từ bé, từ trong máu thịt anh. Bà nhiều lúc phải lắc đầu chiều chồng. Tiền có trong túi, anh em ai cần, anh biết là cho, cho mượn, rồi mua sách, báo đầy nhà cho mượn như một thư viện. Ở nước ngoài về chỉ sách là sách. Về đến nhà là vớ lấy sách, đọc mọi lúc, mọi nơi, ngồi trong toa-lét đọc mải mê cả tiếng đồng hồ...

Trước thời cuộc

Các nhà trí thức thức thời như thầy Bửu chưa dễ gặp được Cách mạng như nhà giáo Hoàng Đạo Thúy đến với Việt Minh từ năm 1943. Ở Huế ông cùng Luật sư Phan Anh nhận định: Phe Đồng minh sớm muộn sẽ thắng phe Trục (phát-xít Đức - Ý - Nhật) nhưng ta không theo Mỹ, Anh; Nga Xô thì chưa rõ. Trước mắt, lợi dụng "Chính sách Đại Đông Á" của Nhật được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Xem ra, Việt Minh có thể phát triển mạnh, đem lại được Độc lập cho dân tộc, cần chờ thời cơ (Trong khi Phan Mỹ em trai Phan Anh đã bí mật lên chiến khu Việt Bắc).

Sau cuộc đảo chính Nhật hất cẳng Pháp 9-3-1945, Phan Anh nhận chức Bộ trưởng Bộ Thanh niên trong chính phủ Trần Trọng Kim. Giáo sư Bửu chỉ đóng vai cố vấn. Sáng kiến của hai ông cũng là đóng góp lớn cho cuộc khởi nghĩa ở Huế và xây dựng quân đội sau này. Bộ Thanh niên thành lập Trường Thanh niên tiền tuyến - một cái tên lấp lửng, không phải là quân đội, không để bọn Nhật điều động nhưng lại tập luyện quân sự. Khóa đầu tuyển 43 học viên hầu hết là hướng đạo sinh, nhiều người bí mật tham gia Việt Minh. Đó là lực lượng vũ trang chủ yếu cướp chính quyền, bảo vệ lễ thoái vị của Bảo Đại ngày 23-8-1945, làm nòng cốt xây dựng các lực lượng vũ trang ở Huế, bổ sung cán bộ cho mặt trận phía Nam, Nam Lào. Tạ Quang Bửu đề nghị Bộ trưởng Nội vụ Trần Đình Nam (chính phủ Trần Trọng Kim) mật điện cho các tỉnh tránh va chạm với quân Nhật, và yêu cầu tổ chức Thanh niên các địa phương tạo điều kiện, trao chính quyền cho Việt Minh. Hai ông ra Hà Nội. Bác Hồ gặp riêng từng người.

Giáo sư Bửu kể: "Cụ giữ lại ăn cơm trưa. Bát đũa dinh Thống sứ rất sang, nhưng chỉ có rau muống và gạo cũ. Thật phấn khởi được ăn bữa cơm với Chủ tịch nước, mà đó lại là nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc mà từ lâu tôi đã ngưỡng mộ, khao khát được gặp, được phục vụ Người".

Lời chê quý hơn vàng

Ông Tạ Quang Bửu ở lại Bắc Bộ phủ làm Tham nghị trưởng lo việc giao thiệp với Anh, Mỹ, lần đầu tiên rất thích thú với câu Bác phê bình: Sao chú dốt thế! Thấy ông chăm chú lắng nghe, không tỏ chút tự ái nào, Bác chỉ rõ chỗ nào dốt về chính trị, câu chữ nào dốt về Anh ngữ. Bác chữa nát cả bài. Ông viết lại. Cứ thế, ông rút kinh nghiệm, học được rất nhanh, thành thạo thảo thư gửi các nguyên thủ quốc gia, các văn kiện ngoại giao.

Hẳn đó cũng là cái gốc để sau này các phái đoàn ta đi đối ngoại đều có mặt ông. Quan trọng như tại Giơ-ne-vơ năm 1954, ông thay mặt Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng ký Hiệp định tống cổ quân xâm lược Pháp ra khỏi toàn cõi Đông Dương.

Trong kháng chiến khi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (năm 1948), rồi Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, giáo sư đã đề xuất hàng loạt chủ trương và trực tiếp chỉ đạo các chương trình nghiên cứu khoa học. Trong đó nổi bật là đề tài nghiên cứu mang mật danh: GK1 (G- Giao thông, K - Bách khoa) tên lửa phòng không, rà phá thủy lôi thả xuống sông biển phong tỏa ta, rồi GK2, 3, 4... các loại bom từ trường, "mắt thần" v.v... mà máy bay, tàu chiến Mỹ sử dụng để đánh phá miền Bắc...

Giáo sư Tạ Quang Bửu (phải) ký Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954.

Sống là gì?

Anh em ở lâu gần ông đều thấy bản lĩnh khác người: Càng lúc gian nan bức bách, giáo sư càng bình tĩnh sáng suốt. Cuối năm 1947 khi quân Pháp nhảy dù, tấn công Việt Bắc âm mưu "cất vó" chính phủ Hồ Chí Minh là lúc ông viết tác phẩm Sống: Điều cốt yếu không phải sống là gì? Mà làm gì khi sống? Năm 1948, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Năm 1979 nghỉ hưu thêm bệnh tăng huyết áp, vôi hóa cột sống, không cúi người được, đọc viết phải đứng. Giáo sư có hai dự cảm: Quỹ thời gian của mình không còn nhiều mà thời cuộc thế giới có thể chuyển biến, tác động tới đất nước. Ông càng gắng sức đọc, viết, công bố các thông tin khoa học cập nhật mong Việt Nam tiến kịp các nước khu vực.

Đặc biệt, tới gần Đại hội VI, giáo sư gần như dành hết tâm lực suy nghĩ về chiến lược con người, phần góp ý nội bộ, phần xây dựng văn bản trình Đại hội, gửi gắm nhiều hy vọng vào công cuộc đổi mới mà các vị Trường Chinh, Phạm Văn Đồng trực tiếp nhiều lần gợi mở, tham vấn. Do làm việc quá sức, tuần hoàn não bị rối loạn, đêm 14-8-1986 giáo sư bị đột quỵ, bảy ngày sau (21-8-1986) ông ra đi để lại sự tiếc thương cho mọi người.

Trịnh Tố Long