Ngày rằm tháng Bảy, mùa Thu, năm Canh Tuất (1010) - theo tính toán của chúng tôi - Kinh đô Thăng Long được vua Lý Thái Tổ chính thức khai sinh.

Trước đấy ở tờ “thủ chiếu” (chiếu chỉ do nhà vua tự tay viết) để hỏi ý kiến các quan trong triều (không phải để “tuyên” (đọc) trước thiên hạ) về việc dời đô cũ (Hoa Lư) định đô mới (Thăng Long) - được, gần đây, đặt cho cái tên là “Chiếu dời đô” - đã thấy nói rõ: nơi Lý Thái Tổ lựa chọn và quyết định đặt tòa Kinh đô cho vương triều, đất nuớc, và “muôn đời sau” là “thành Đại La”.

Đó là địa bàn và công trình kiến trúc do “Kinh lược sứ” của đế chế nhà Đường là Cao Biền ở và từ phương Bắc đến xây và dùng làm “phủ thành” của “An Nam đô hộ phủ” từ năm 866. Chỗ này, trước đấy mấy viên quan đô hộ khác, cũng của nhà Đường là Lý Nguyên Gia, Trương Bá Nghi… đã xây thành, nhưng chỉ gọi tên là “La Thành”. Lại trước đấy nữa, xa gần quanh chỗ này - vẫn những viên quan cai trị đến từ phương Bắc - đặc biệt là chức “Tổng quản” tên là Khâu Hòa vào và từ năm 621 - cũng đã cho đắp thành, gọi là “Tử Thành” (Thành con).

Khu vực căn cứ đầu não thống trị của ngoại bang này, từ đầu thế kỷ VII đến cuối thế kỷ IX, đã bị nhiều cuộc khởi nghĩa và binh biến của người Việt - đặc biệt là các phong trào yêu nước, đánh giặc của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (791), thủ lĩnh Dương Thanh (819)… tấn công, chiếm giữ một thời gian. Sang đến đầu thế kỷ X, với các sự kiện “Họ Khúc dấy nghiệp” (905 - 930), “Trận quyết chiến chiến lược Đại La” (năm 931 của Dương Đình Nghệ), “Trận diệt thù trong (Kiều Công Tiễn) ở Đại La trước khi đánh giặc ngoài (Nam Hán) ở Bạch Đằng” (năm 938 của Ngô Quyền)…, nơi mà Lý Thái Tổ vào năm 1010 sẽ đến định đô, đã dần trở thành trung tâm diễn biến của những “quốc gia đại sự”. Cho nên sử sách mới thống nhất gọi thời gian và lịch sử những sự kiện và diễn biến ấy, ở miền này là: “Tiền - Thăng Long”. Và thống nhất chỉ ra rằng: Người khai sáng miền và thời Tiền - Thăng Long chính là nhân vật lịch sử lớn ở thế kỷ VI - Lý Bí.

Phố Lý Nam Đế ngày nay

Lý Bí sinh vào năm cuối cùng của thế kỷ V, năm 499, đời nhà Lương từ phương Bắc đến thống trị. Sử cũ thường gọi tên “Bí” thành “Bôn”. Lại cũng có chỗ nói là “Phần”. Còn dân gian thì quen gọi và kiêng tên “Bí”. Sở dĩ vậy, là vì các tên này, chung tự dạng Hán ngữ, đọc chữ này là “Bí”, hoặc “Bôn”, hay “Phần”, đều được. Và đều có nghĩa tốt: “Bí” là “rực rỡ”, “Bôn” là “Dũng sĩ”, “Phần” là “To lớn”.

Điều quan trọng là nhân vật người Việt này - dù là “rực rỡ”, hay “Dũng sĩ”, hoặc “To lớn”, thì đến giữa thế kỷ VI, đích thực đã làm được một loạt các công việc đều có nghĩa như vậy.

Cụ thể là: vào năm 541 - dựng cờ khởi nghĩa, quét sạch bọn đô hộ nhà Lương khỏi bờ cõi; năm 542 - đánh tan lũ quân nhà Lương kéo sang tái chiếm nước Việt; năm 543 - dẹp yên nạn lấn chiếm, gây rối ở biên cương phía Nam. Do đấy, đúng ngày Tết xuân năm 544 - lên ngôi với danh hiệu “Lý Nam Việt Đế”: lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, xưng “đế”, mà không chỉ xưng “Vương”; và khai sinh một quốc gia độc lập, với quốc hiệu “Vạn Xuân”: tươi đẹp và trường tồn. Đặc biệt là trong vòng hai năm 544 - 545, vị hoàng đế họ Lý, người Việt của quốc gia một vạn mùa xuân ở phương Nam này, đã tạo dựng được ba công trình đặc biệt, ở ngay trên miền đất mà sau đấy mới (sẽ) thành Đại La và Thăng Long.

Thứ nhất là xây đài Vạn Xuân, làm nơi triều hội trăm quan văn võ (ở khoảng đầu và cuối quận Hoàng Mai - Hà Nội bây giờ, là nơi còn lưu dấu các địa danh: ô Vạn Xuân, đê Vạn Xuân, và đặc biệt là đầm Vạn Xoan).

Thứ hai là lập chùa Khai Quốc, làm trung tâm Phật giáo và Phật học (lúc đầu ở ngoài đê Yên Phụ, giữa Hồ Tây và sông Hồng; sau dời vào mé trong Hồ Tây, với các tên gọi tiếp theo: An Quốc, rồi Trấn Quốc như bây giờ).

Thứ ba là dựng tòa “Tô Lịch giang thành” ở nơi cửa sông Tô Lịch, làm căn cứ quân sự (dạng thành lũy) đầu tiên của và ở trên miền đất này.

Với ba công trình hành chính, văn hóa, và quốc phòng rất tiêu biểu này, rõ ràng những tiêu chí cho một đô thành sơ khởi đã được xác lập. Và như thế, một miền, cùng một thời “Tiền - Thăng Long” đã được khai sáng, ngay từ giữa thế kỷ VI, cách ngày nay 1.500 năm (không chỉ 1000 năm)!

Và người có “cặp mắt xanh” để khai sáng thực thể cùng sự nghiệp kỳ vĩ “Tiền – Thăng Long” từ thời gian rất sớm này, chính là Lý Nam Việt Đế (quen được gọi tắt là: Lý Nam Đế).

GS Lê Văn Lan