QĐND - Bà vẫn giữ phong thái của một người con gái Hà Nội: Nhẹ nhàng, kín đáo và lịch thiệp. Nhưng trong công việc thì lại rất cá tính, rất quyết liệt. Bà là Phạm Chi Lan, nguyên Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Gần 4 thập kỷ gắn bó với VCCI
Bà quê ở Đông Ngạc (Từ Liêm), mảnh đất danh tiếng về khoa bảng. Nơi đây có hơn 20 tiến sĩ đã từng lưu danh trong văn bia ở Quốc Tử Giám. Bố bà là cụ Phạm Trinh Cán, người học sau Đại tướng Võ Nguyên Giáp 2 khóa tại Đại học Luật ở Hà Nội những năm 30-40 của thế kỷ trước. Chính Đại tướng là người đã giác ngộ cụ bằng cách cho mượn các sách và giảng giải về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về cách mạng dân tộc dân chủ. Trong Cách mạng Tháng Tám, cụ đã tham gia giành chính quyền ở Quy Nhơn, làm Phó chủ tịch Ủy ban lâm thời tỉnh. Năm 1946, cụ ra Hà Nội, tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam và được giao giữ chức Cục trưởng Cục Quân pháp kiêm Chánh án Tòa án binh, sau đó làm Chánh Văn phòng Bộ Tổng tham mưu. Cụ cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh phong Đại tá trong đợt phong quân hàm đầu tiên. Năm 1953, cụ Phạm Trinh Cán chuyển ngành sang công tác ở Bộ Giáo dục.
 |
Bà Phạm Chi Lan.
|
Các anh và em gái của bà Lan đều là giảng viên đại học về các bộ môn khoa học cơ bản và ngoại ngữ. Riêng Phạm Chi Lan lại đi theo một hướng khác. Bà tâm sự:
- Cũng chẳng hiểu cơ duyên thế nào mà tôi lại học kinh tế. Đầu thập niên 1960 có câu “Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa…”, chưa mấy ai coi kinh tế là quan trọng. Tôi vào Đại học Kinh tế-Tài chính, học chuyên ngành ngoại thương, lúc ấy ngoại ngữ chủ đạo là tiếng Nga nhưng khoa tôi được học tiếng Anh…
Hồi ở trường, Phạm Chi Lan nổi tiếng học giỏi. Tốt nghiệp đại học bà có kết quả cao nhất khóa với 34/36 môn đạt điểm tối đa (5 điểm lúc bấy giờ), chỉ có 2 môn 4 điểm. Ra trường, lúc đầu bà được giữ lại làm giảng viên nhưng do hoàn cảnh lịch sử, chiến tranh phá hoại bắt đầu lan rộng, bà được điều về Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và gần 40 năm bà gắn bó với cơ quan này cho tới lúc về hưu. Bà bảo: “Làm việc ở VCCI tôi có nhiều cơ hội học hỏi, nghiên cứu từ thực tiễn công tác ngoại thương vì VCCI là một cầu nối Việt Nam ra thế giới. Hơn nữa nơi đó còn giúp tôi có điều kiện tìm hiểu một mô hình kinh tế khác với mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa quen thuộc, điều này rất hữu ích khi nước ta đổi mới”.
Về VCCI trong hoàn cảnh chiến tranh đang lan rộng, bà được giao nhiệm vụ theo dõi vấn đề chống phong tỏa kinh tế của Mỹ với Việt Nam. Hồi ấy, mỗi khi tàu chở hàng nước ngoài vào Hải Phòng-cảng lớn nhất tiếp nhận hàng nhập khẩu của miền Bắc-bị đánh phá, bà thường nhanh chóng có mặt để ghi nhận sự thiệt hại. Sau đó, vừa làm báo cáo gửi cấp trên, vừa làm thông báo chính thức của VCCI để gửi đi các nước tố cáo tội ác và sự phá hoại của kẻ thù. Vốn thạo tiếng Anh, bà được lãnh đạo Phòng giao lấy tin từ thông tấn xã, xử lý và dịch ra tiếng Việt để làm Bản tin chống phong tỏa, một loại bản tin nội bộ cung cấp cho các cơ quan liên quan suốt những năm chiến tranh.
Công tác ở VCCI, Phạm Chi Lan lần lượt giữ các cương vị Trưởng ban Quan hệ quốc tế, Tổng thư ký và Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Từ năm 1996 bà còn được mời tham gia Tổ tư vấn, sau này gọi là Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ. Ở những cương vị quan trọng ấy, bà có nhiều kỷ niệm không thể nào quên…
Năm 1986, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng VI, đất nước bắt đầu sự nghiệp đổi mới. Phạm Chi Lan cảm nhận rất rõ ràng về những chuyển động, khởi sắc của đất nước. Vấn đề chiến lược đặt ra lúc bấy giờ là phải nghiên cứu về mô hình phát triển kinh tế cho đất nước. Bà đã liên hệ mời một số chuyên gia kinh tế các nước đến để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với ta. Năm 1990, bà tham gia đoàn công tác do đồng chí Trần Đức Nguyên, Tổ phó Tổ nghiên cứu chiến lược 1991-2000 của ta dẫn đầu đi Hàn Quốc. Hồi ấy Việt Nam và Hàn Quốc chưa thiết lập quan hệ ngoại giao, nhưng bạn tiếp đón rất trọng thị, nhiều bộ trưởng và người đứng đầu các tập đoàn lớn tiếp và tọa đàm với ta. Sau khi nghe ta giới thiệu đường lối đổi mới và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, nhiều chuyên gia Hàn Quốc đã tỏ ra ngạc nhiên khi thấy ở một nước cộng sản lại có tư duy kinh tế mới và mạnh bạo như vậy. Một số người còn cho rằng nếu Việt Nam cải cách tốt, khả năng trở thành “Rồng” sẽ sớm thành hiện thực, thậm chí trong một thời gian ngắn hơn Hàn Quốc. Chuyến đi không chỉ củng cố niềm tin về con đường chúng ta đang đi mà còn thu nhận được nhiều kinh nghiệm của bạn, bổ sung cho chiến lược phát triển của đất nước. Đây cũng là bước thăm dò, tạo cơ sở để hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1992.
Không chỉ Hàn Quốc mà với nhiều nước tư bản khác, trong thời gian này, chúng ta đã tăng cường tiếp cận để phát triển quan hệ trong bối cảnh Mỹ vẫn cấm vận kinh tế đối với nước ta. Năm 1993, Pháp cho ta vay khoản bắc cầu để trả Ngân hàng Thế giới, tạo cơ sở để Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức này và khai thông kênh viện trợ ODA của chính phủ các nước và các tổ chức tài chính quốc tế cho nước ta.
Mùa thu năm 1992, trên cương vị Phó tổng thư ký của VCCI, bà Phạm Chi Lan dẫn đầu một đoàn sang Mỹ. Trong một cuộc hội thảo, một người Mỹ đã hỏi một cách mỉa mai: “Việt Nam đã đổi mới mấy năm rồi mà sao chưa có nền kinh tế thị trường và đời sống còn rất khó khăn?”. Bà Lan bình tĩnh trả lời: “Ông hãy nhìn sang các nước, ở đâu cải cách kinh tế chẳng khó khăn, tốn kém. Ngay như Tây Đức kinh tế hùng hậu thế đã đổ hàng tỷ đô-la sang Đông Đức mà cũng chưa làm thay đổi nhiều bộ mặt kinh tế ở đây. Trong khi đó, Việt Nam mấy chục năm bị chiến tranh tàn phá kiệt quệ, lại bị cấm vận kinh tế, viện trợ nước ngoài tính trung bình 1 người dân chúng tôi nhận chưa đầy 1 USD 1 năm thì làm sao có sự cải thiện nhanh được?”. Sau câu trả lời của bà, hội trường lặng đi, rồi rộ lên tiếng vỗ tay tán thưởng. Sau đó, trong các cuộc tiếp xúc và đối thoại, các chuyến đi khác, không khí dịu dần đi… Nhiều công ty, tổ chức của Mỹ và các nước phương Tây đã tích cực vận động, góp phần thúc đẩy Chính phủ Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vào năm 1995.
Đam mê phục vụ cộng đồng doanh nghiệp
Là một chuyên gia kinh tế nổi tiếng nhưng bà Phạm Chi Lan lại rất khiêm tốn khi nói về mình. Bà bảo, mình chỉ thích và đam mê công việc phục vụ cộng đồng doanh nghiệp ở VCCI chứ nếu làm kinh doanh thì chưa chắc đã thành công. Vì chuyện trong lĩnh vực xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp với một nhà kinh doanh giỏi tuy quan hệ khăng khít nhưng lại có sự khác nhau về mục tiêu, cách tiếp cận cũng như đòi hỏi những tố chất và năng lực khác nhau. Có lẽ vì thế nên ngay cả khi về nghỉ hưu, một số doanh nghiệp có mời về làm nhưng bà đều từ chối. Khi còn tại chức, bà đã từng được hỏi ý kiến để đưa bà về một bộ để giữ một vị trí khá cao nhưng bà cũng từ chối với lý do ở Phòng Thương mại và Công nghiệp, bà có thể đóng góp được nhiều hơn cho đất nước.
 |
Bà Phạm Chi Lan (thứ hai bên trái) với các đại biểu dự diễn đàn cựu lãnh đạo trẻ tổ chức tại Xin-ga-po. Ảnh do bà Phạm Chi Lan cung cấp
|
Sự nghiệp gần như cả đời của bà Phạm Chi Lan là ở VCCI. Bà đã thành đạt, thành danh ở cơ quan này. Điều trăn trở lớn nhất của bà khi còn tại chức cũng như cho đến nay khi đã về nghỉ hưu vẫn là chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Hay nói một cách khác, doanh nghiệp nước ta còn thiếu tính liên kết, tính hợp tác. Bà tâm sự:
- Trong thời chiến, chúng ta đoàn kết rất tốt, sẵn sàng chia sẻ với nhau tất cả, thậm chí hy sinh cả tính mạng vì nhau. Tại sao bây giờ hòa bình, nước mình còn nghèo, phải lo tập trung sức phát triển, cạnh tranh với thiên hạ mà các doanh nghiệp lại thiếu sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau? Chính từ điểm yếu đó mà các doanh nghiệp khó mạnh lên được, và nhiều khi bị thua thiệt trước các đối thủ bên ngoài. Đây là điều làm hạn chế sức mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Về với đời thường nhưng bà Phạm Chi Lan vẫn thường xuyên được mời tham gia nghiên cứu, dự các hội nghị hoặc thuyết trình về các vấn đề kinh tế. Bà cũng thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng để bày tỏ chính kiến hoặc đề xuất giải pháp cho các vấn đề “nóng” của đất nước…
Sau những lúc bận rộn, bà lại trở về tổ ấm của mình ở xóm Chùa, Quảng An. Bà bảo, ở đây môi trường tự nhiên cũng như xã hội thật tuyệt vời. Không gian luôn tĩnh lặng, êm đềm, nhiều cây xanh. Mọi người sống với nhau thân ái và đầy tình nghĩa xóm giềng. Chồng bà là bạn cùng học đại học, trước khi về nghỉ, ông làm ở một số đơn vị ngoại thương, sau đó làm tư vấn kinh doanh. Ông bà sống với vợ chồng con trai và các cháu nội. Bà chia sẻ:
Những lúc rảnh, tôi rất thích tự tay chăm sóc các cháu hoặc vào bếp nấu ăn. Ngoài giờ sinh hoạt chung với gia đình và công việc xã hội, tôi vẫn đọc và viết lách, quen cái nếp từ nhiều năm đến giờ…
Hoàng Tiến