QĐND - Một tay chống hông, một tay cầm viên phấn, ngày ngày, ông Tư vẫn đứng trên bục giảng bằng cái tâm của người thầy, bằng tình thương vô bờ với người lao động nghèo khổ. Gần 18 năm qua, lớp học tình thương của ông bà Tư đã xóa mù chữ cho gần 1000 đứa trẻ xóm lò gạch ở ấp Tân Lập, xã Đông Hòa, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Ở cái tuổi thất thập cổ lai hy, ông bà vẫn day dứt nỗi lo về lớp học tình thương, nếu mai kia, người ta giải tỏa nó để xây dựng khu đô thị mới.

Bài ca khỏi đi lạc

Hôm chúng tôi đến thăm lớp, ông Tư đang đứng dạy lớp hai. Người giáo già hết viết lên bảng bài tập rồi lại đi xuống lớp chỉ dẫn học trò làm toán. Tất bật và vất vả, nhưng ông luôn nở nụ cười hiền hậu. Có điều lạ là người thầy ấy chỉ gọi học trò của mình bằng “các con” và trò gọi thầy bằng “ông”. “Ông Tư ơi, bài toán này con làm đúng chưa?”, “Ông ơi, con xung phong lên bảng giải toán ạ”… Hàng loạt câu hỏi của bọn trẻ đặt ra với người giáo già. Chúng tôi cũng không tiện gặp riêng ông, chỉ chờ những lúc “đàn con” của ông cắm cúi làm bài tập thì mới tranh thủ bắt chuyện. Ông mỉm cười: “Bây giờ khá hơn trước nhiều rồi mấy cháu à. Lớp học có thêm một phòng mới rộng rãi, chứ trước đây, nhiều lúc ba lớp phải học chung. Bảng chia làm ba, bài toán nhân ba chữ số thì lớp hai chỉ làm tính tới hàng đơn vị, lớp ba làm thêm hàng chục, lớp bốn làm cả ba…”. Nhìn những đứa trẻ ngày ngày bán vé số, đánh giày… đen nhẻm, không giấy khai sinh, không hộ khẩu, bi bô tập đọc, ai cũng thấy chạnh lòng. Hai phòng học giản dị với những đứa học trò mới bảy, tám tuổi nhưng đã có vài năm bươn chải kiếm sống, đang ngoan ngoãn ngồi học nghiêm túc.

Ông Tư căn dặn mấy đứa trẻ trước khi ra về.

Tuy nằm ở địa phận tỉnh Bình Dương, nhưng chỉ cần đi theo mấy con đường ngoằn nghèo, nhỏ hẹp phía sau Làng đại học Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, hỏi thăm mấy bác công nhân lò gạch là đến được với lớp học tình thương của ông bà Tư. Đối tượng chính của lớp học là con cái của những công nhân quanh đây. Đồng lương thu nhập thấp, đa số không có hộ khẩu, con cái đi học ở các trường công lập gặp khó khăn về thủ tục nên họ gửi con cho ông bà Tư dạy chữ.

Gần 12 giờ trưa, ông Tư cho lớp nghỉ. Trước khi ra về, học trò xếp hai hàng ngay ngắn đọc to, rõ bài tập đọc vừa học và hát vang bài ca truyền thống: “Lớp học tình thương ấp Tân Lập, xã Đông Hòa, Dĩ An, Bình Dương gần Ký túc xá Đại học quốc gia, gần trường An Ninh, gần…”. Thấy chúng tôi có vẻ ngạc nhiên khi nghe hàng loạt những địa chỉ được liệt kê, ông Tư giải thích: “Đấy là Bài ca khỏi đi lạc do tôi sáng tác để dạy cho các con của mình. Mấy đưa nhỏ đi bán vé số, đánh giày nhiều nơi, tôi dạy chúng để chẳng may đi lạc, tụi nhỏ còn biết mà nhờ người ta đưa về nhà”.

Mấy đứa trẻ ùa ra về như bầy chim vỡ tổ. Có đứa được cha mẹ đến đón, có đứa tự đi về, cười nói vui vẻ giữa cái nắng trưa gay gắt.

Hành trình gieo chữ

Ông Tư tên thật là Huỳnh Văn Phê, vợ ông là bà Huỳnh Thị Lành, nhưng người dân địa phương và bọn trẻ quen gọi họ với cái tên thân mật là ông bà Tư. Đầu năm 1994, từ Tiền Giang lặn lội lên Thành phố Hồ Chí Minh kiếm sống, ông bà bắt đầu nghiệp “gieo chữ”. Lúc đó, ông Tư được Công ty Đại Dương (ở ấp Tân Lập, xã Đông Hòa, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương) nhận làm bảo vệ. Gia đình ông bà phải sống tạm bợ trong khu lều lụp sụp dành cho công nhân của năm cái lò gạch xã Đông Hòa. Dân ở đây cũng giống như ông bà, đều là người tứ xứ nhập cư. Người ở miền Bắc, người miền Trung và miền Nam tụ họp về đây. Cái thời đó, kinh tế còn khó khăn, với những người lao động nghèo này, kiếm cái ăn đã khó lắm rồi thì làm gì dám tính đến chuyện học hành của con cái.

Ông Tư đang đứng lớp.

Thương những đứa trẻ không biết chữ, hằng ngày lang thang kiếm sống, ông bà xin chính quyền địa phương để được dạy học miễn phí cho chúng. Ông Tư từng học tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse, còn bà cũng từng là giáo viên nên thuận tiện cho việc giảng dạy. Và điểm mốc ông bà không bao giờ quên là ngày 18-8-1994, Lớp học tình thương xóm lò gạch chính thức được thành lập với 5 học sinh. Nhịp sống lao động ngày càng tất bật, con của công nhân ngày một đông, đồng thuận với tấm lòng nhân nghĩa của ông bà, địa phương và công ty của ông cho mượn 200m2 đất để xây trường. Gọi là trường học nhưng vốn đầu tư chỉ bằng tiền lương một tháng bảo vệ của ông Tư là 500.000 đồng. Phụ huynh học sinh trong xóm cũng mong muốn con cái mình có cái chữ nên nhiệt tình đóng góp. Ai có gì góp nấy. Người phụ chút đỉnh tiền, người ủng hộ tấm ván, cây tre… Ai không có vật chất thì góp công xây dựng. Thế là có phòng học hẳn hoi.

Ông Tư bồi hồi kể: "Những ngày đầu mở lớp gặp nhiều khó khăn lắm chú à, phòng học dột nát, cơ sở vật chất thiếu thốn đủ thứ. Mấy đứa trẻ đến lớp rất ít và thường phải nghỉ học để phụ cha mẹ đi bán vé số dạo, hay thu lượm ve chai...". Vạn sự khởi đầu nan, ông bà quyết tâm tạo dựng một lớp học tình thương đúng như ý nghĩa của nó. Sau nhiều lần ngược xuôi đi xin tài trợ, ông bà đã xây dựng được hai phòng học đàng hoàng. Vận động các gia đình trong xóm cho con cái mình đi học đều đặn. Nhờ vậy mà số lượng học sinh đến lớp ngày một nhiều hơn. Sĩ số của mỗi lớp được duy trì hơn 50 học sinh. Sách giáo khoa, vở ghi thì gia đình nào có điều kiện thì mua sắm cho con. Ngoài ra, ông còn vận động các nhà hảo tâm tài trợ thêm. Lớp trước học xong thì để sách lại cho lớp sau. “Trước đây, tôi dạy học miễn phí, nhưng từ khi nghỉ hưu, khó khăn về kinh phí, bây giờ mỗi tháng phụ huynh đóng góp 15 ngàn đồng để phụ tiền điện, tiền nước với lớp học. Gia đình nào khó khăn quá thì miễn luôn”.

Hằng ngày, hai ông bà chia nhau đứng lớp. Ông Tư dạy từ lớp lá đến lớp 2, còn bà Tư dạy những em học lớp 3, lớp 4. Lý do phân công này cũng rất đơn giản. Mấy bé lớp lá còn nhỏ, thường không nghe lời nên ông đứng lớp mới răn dạy được chúng. Mấy em lớp 3, lớp 4 thì biết hơn nên bà Tư dạy. Không chỉ dạy chữ, ông bà còn dạy đạo làm người cho bọn trẻ. Ngày hai buổi học, cứ thế, 18 năm trôi qua, ông bà đã âm thầm đưa nhiều chuyến đò tri thức qua sông.

Mong giữ được lớp học

Bao nhiêu lớp học trò qua đi, cái tên ông bà Tư trở thành tiếng gọi quen thuộc. Những đứa học trò đã lớn, người được bố mẹ cho về quê, cũng có đứa tiếp tục học lên trung học. Cứ tưởng công việc gieo chữ của ông bà thuận buồm xuôi gió thì lại có vướng mắc xảy ra. Lớp học tình thương vốn nằm trong phần đất của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, buộc phải giải tỏa để xây dựng Khu Đô thị Đại học. Vì thế, nhiều năm nay, ông bà Tư luôn lo lắng bọn trẻ sẽ không còn cơ hội cắp sách đến trường. Lo cũng đúng, bởi ông bà chỉ là người giữ đất hộ mà không có quyền sử dụng. Ông bà cũng không có quyền duy trì lớp học bởi ông bà thuộc dạng “ba không”. Nghĩa là không được tái định cư, không được mua đất tái định cư và không được đền bù khi trả lại đất.

Trên bức vách căn phòng học ấm áp tình thương này treo chi chít những bằng khen, giấy khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, UBND tỉnh Bình Dương và nhiều ban, ngành ghi rõ tên ông bà là giáo viên hưu Huỳnh Văn Phê, giáo viên hưu Huỳnh Thị Lành có thành tích xuất sắc trong sự nghiệp giáo dục, bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Thấy tôi chăm chú nhìn, ông Tư giải thích: Cái tên Lớp học tình thương đã có từ khi lớp học ra đời, còn cụm từ “giáo viên hưu” mới có đây thôi, khi chính quyền địa phương quan tâm động viên. Hồi mở lớp, vợ chồng tôi có nghĩ là nhận thưởng gì đâu, mà nhận thưởng với chúng tôi cũng chẳng để làm gì. Chúng tôi chỉ mong, sau khi giải tỏa, chính quyền địa phương xây một lớp học tình thương mới, để những đứa trẻ nghèo tứ xứ về đây có được kiến thức, thoát khỏi cảnh đói nghèo, lang thang.

Bước sang tuổi 74, bệnh hen suyễn mãn tính của ông Tư ngày càng nặng, cộng thêm vết thương ở sống lưng tái phát khiến hằng ngày ông đứng lớp, tay phải chống hông cho đỡ mệt. Khi tôi hỏi: “Điều ông mong muốn hiện nay là gì?”, khuôn mặt khắc khổ, lấm lem bụi phấn của ông chùng xuống, ông lắc mái đầu bạc trắng: “Tôi chỉ mong bọn trẻ không mù chữ. Nhưng bây giờ không biết chúng tôi còn dạy ở đây được bao lâu nữa? Vui buồn với lớp học hơn 18 năm nay rồi. Đại học quốc gia quy hoạch đến đâu thì người dân trả đất đến đó, liệu còn lớp học không?”. Đến đây, ông Tư không nói nên lời. Bà Tư phân trần: "Chúng tôi già rồi, về đâu chẳng được, chỉ lo cho mấy đứa nhỏ lại thất học. Khi năm cái lò gạch giải tỏa, những đứa trẻ cùng cha mẹ chúng đi theo những lò gạch mới thì chúng lại bỏ học. Không biết sang cái Tết Nhâm Thìn này, mọi sự thay đổi như thế nào?".

Đồng hồ đã điểm 13 giờ, ông Tư quay ra nhắc mấy đứa nhỏ trật tự để chuẩn bị vào giờ học buổi chiều. Tiếng bi bô tập đọc của các học trò nhỏ lại vang vọng. Chia tay ông bà Tư, chia tay lớp học ấm áp tình thương, chúng tôi ra về mà lòng trĩu nặng. Mong sao ước nguyện của ông bà Tư được thực hiện và tấm lòng thơm thảo ấy nhân lên ngày càng nhiều trong xã hội.

Bài và ảnh: Hùng Khoa – Tuyết Lê