QĐND - Khi chuẩn bị bản thảo cuốn sách “Những lá thư thời chiến Việt Nam” (tập 3) để ra mắt bạn đọc trong thời gian tới, tôi nhận được lá thư của anh Phạm Khắc Miễn (tổ 104, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) với những dòng tâm sự: “Tôi rất xúc động khi đọc “Những lá thư thời chiến Việt Nam” mà anh là người đã làm cho nó sống lại. Tôi thấy mình phải có trách nhiệm với những bức thư thời chiến ấy, vì vậy tôi xin gửi 10 bức thư của anh ruột tôi là liệt sĩ Phạm Khắc Duyến, hy sinh ngày 17-3-1975 tại cửa ngõ Xuân Lộc. Trước khi nhập ngũ, anh tôi là sinh viên năm thứ nhất Đại học Bách khoa Hà Nội...”.

Lại một chàng sinh viên trẻ tình nguyện khoác áo lính ra trận với sự hồn nhiên, trong sáng đến lạ kỳ. Mười bức thư viết về cho những người thân của Phạm Khắc Duyến rất giản dị, không cầu kỳ nhưng chân thành, sâu sắc. Chứa đựng trong những lá thư này không chỉ là tinh thần nhiệt huyết của tuổi trẻ một thời mà còn là những suy nghĩ sâu sắc của anh lính trẻ về một giai đoạn khó khăn mà cả dân tộc đang trải qua, về vẻ đẹp của quê hương, của con người Vĩnh Linh - nơi anh bắt đầu có những cảm nhận rõ ràng về cuộc chiến khốc liệt. Mỗi bức thư của anh đều có những sắc thái riêng, viết cho cha với tất cả lòng ngưỡng mộ, kính trọng, viết cho mẹ đầy yêu thương, viết cho chị gái nhẹ nhàng, tha thiết, viết cho em trai chứa chan tình cảm... Những kỷ niệm thời thơ ấu, những ước mơ giản dị dù chỉ là trở về với chị để được ăn bánh tôm Hồ Tây cũng đủ làm tâm hồn người lính thêm đẹp và trong sáng.

“Càng hành quân, con càng yêu Tổ quốc mình”

Lá thư đầu tiên gửi về gia đình ngày 29-6-1974, Phạm Khắc Duyến dí dỏm “khoe” với cả nhà: “Bây giờ đã “biến dị” nhiều lắm. Phải tạm biệt bộ tóc để “lĩnh” cái 3 phân cua hết. Từ nay trên mình đã khoác bộ quần áo lính rồi, mọi người bảo trông khỏe và đứng đắn hơn”. Cũng trong lá thư này, chàng sinh viên Hà Nội đã có những cảm nhận ban đầu về cuộc sống quân ngũ: “Hành quân – hai tiếng quen thuộc từ lâu nhưng bây giờ thì hành quân thật rồi. Người lính hành quân chứ không phải cuộc hành quân cắm trại thời học sinh nữa. 3 giờ sáng báo động hành quân… Mang trên mình hơn 20kg, đi gần 50km, vượt qua bao nhiêu núi đồi sông suối để đến đây – vị trí đóng quân của đơn vị. Đi dưới nắng gắt mà như đi trong trời mưa, mồ hôi ra ướt hết. Nhiều lúc chỉ muốn gục ngay xuống nhưng rồi trong cuộc đấu tranh tinh thần quyết liệt, người lính trẻ đã thắng lợi”...

 

Liệt sĩ Phạm Khắc Duyến.

Gần 3 tháng sau, trong lá thư thứ hai gửi cho bố mẹ ngày 19-9-1974, Phạm Khắc Duyến viết: “Ba mẹ yêu thương, ba mẹ không phải lo cho con nhiều. Con sẽ giữ gìn sức khỏe để hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Lúc nào con cũng xác định phải cố gắng phấn đấu không ngừng, rèn luyện về mọi mặt, ba mẹ cứ yên tâm. Con luôn nghĩ đến ba mẹ, bà, các chị, các em và gia đình nhà ta. Con rất vui mừng và yên lòng vì chúng con đã không phụ công nuôi nấng, dạy bảo của ba mẹ và sẽ trở thành những con người có ích cho xã hội. Ba mẹ cần giữ gìn sức khỏe, chú trọng đến ăn ngủ nữa. Mẹ gầy đấy, mẹ có ngủ được không? Mẹ cần mua thuốc bổ để uống và ba mẹ phải bồi dưỡng thêm để ăn được cơm. Con rất thương ba mẹ đã già rồi, đáng lẽ được nghỉ ngơi mà phải lo trăm thứ việc, nào việc nước, việc nhà và lo cho từng đứa chúng con…”.

Ngày 2-11-1974, sau khi được nghe đoàn đại biểu anh hùng và chiến sĩ thi đua Quân giải phóng miền Nam kể chuyện chiến đấu tại đơn vị, Phạm Khắc Duyến đã viết thư cho bố với những dòng tâm sự khẳng định quyết tâm của mình: “Giờ đây chúng con đã quyết tâm đi chiến đấu và sẵn sàng cơ động nhận mọi nhiệm vụ mới. Ba hãy tin tưởng rằng con sẽ vượt qua được mọi thử thách để hoàn thành được mọi nhiệm vụ của Tổ quốc giao cho. Mỗi bước đi của con đều được soi sáng bởi con đường, của thành quả cách mạng mà ba đã phấn đấu và cống hiến. Hình ảnh người cha già luôn bên con, động viên con trong những lúc khó khăn gian khổ nhất. Còn vinh dự nào hơn, hạnh phúc nào hơn được hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng loài người để đi theo bước cha anh. Đó là lý trí, là phẩm chất của thế hệ thanh niên Hồ Chí Minh”.

Khi hành quân vào Nam chiến đấu, đến Vĩnh Linh, đơn vị dừng lại ít ngày để củng cố sức khỏe và bổ sung trang bị, Phạm Khắc Duyến đã tranh thủ viết thư về thăm bố mẹ: “Mới vào đến đây thôi nhưng con đã cảm thấy thật sự hiểu nhân dân mình, đất nước mình và dân tộc mình hơn bao giờ hết. Ba có biết không - đứng trên quốc lộ số 1 nhìn sang hai bên, hố bom đạn chi chít như một loại địa hình đặc biệt. Mảnh đất Vĩnh Linh nhỏ bé này tưởng như không thể còn sự sống cũng như cây cỏ… Nhưng ba ơi, tất cả đã rõ rồi và hiện thực đất nước đã và đang chứng minh: không bom đạn nào, không sức mạnh nào có thể ngăn nổi tình cảm Bắc Nam, chia cắt nổi đất nước ta và dòng thác đang ầm ầm cuộn chảy của dân tộc ta”.

Anh hiểu rõ rằng anh đang tiếp bước anh hùng của ông cha: “Con đã được sống ở dải đất miền Trung quê hương và tưởng như ngày nào bóng dáng của ba đã in trên những làng xóm này và bàn chân của ba còn để lại trên những con đường” (Lá thư thứ 6, ngày 1-1-1975).

Yêu quê hương đất nước, anh tự hào trước vẻ đẹp của non sông, anh xao xuyến trước những hình ảnh của những con đường, những dòng sông, những ngọn núi, những cánh rừng, những bãi biển của Tổ quốc: “Lên đến đỉnh đèo Ngang, nhìn xuống phong cảnh như một bức tranh tuyệt vời ba ạ. Con đường uốn quanh co và đoàn xe quân sự chạy soi đèn như một thành phố di chuyển. Biển trải ra vô tận hòa liền với bầu trời. Sóng vỗ rì rầm tung bọt trắng xóa. Những dải mây vờn quanh núi như những dải lụa đang bay” (Lá thư thứ 6, ngày 1-1-1975)

Chiến tranh gian khổ, mất mát, đau thương là vậy nhưng không làm anh sờn lòng. Bởi anh hiểu rõ rằng anh lên đường vì hòa bình của Tổ quốc, vì hạnh phúc của bao người, bởi yêu hòa bình, yêu hạnh phúc nên anh thấy: “Thật hạnh phúc khi con có mặt trong cuộc hành quân này, và được thưởng ngoạn thêm nhiều phong cảnh của đất nước, được đến những nơi đầy sự tích anh hùng của dân tộc. Con đã đi qua những cái cầu, những ngã ba, những làng xóm anh hùng. Xe chạy len lỏi qua những hố bom, hai bên đường màu xanh bắt đầu mọc lên và những đơn vị thanh niên xung phong đang khẩn trương sửa đường cho xe chạy” (Lá thư thứ 6, ngày 1-1-1975).

Cái màu xanh bắt đầu nảy mầm ấy không chỉ là màu xanh của cỏ cây trên những con đường anh qua, mà là màu xanh của những rung động, những hy sinh của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh… Và, như lời anh tâm sự: “Càng hành quân, con càng thấy yêu Tổ quốc mình”.

“Em trai, đừng bận tâm về chuyện riêng của anh”

Trong lá thư thứ 3 đề ngày 10-10-1974 gửi cho chị gái đang học đại học ở Hà Nội, Phạm Khắc Duyến viết: “Chị Phương ơi, thế là chị em mình xa nhau đã 4 tháng rồi. Vì nhiệm vụ của cách mạng, nghĩa vụ đối với Tổ quốc, nhân dân và cả gia đình ta nữa nên em phải rời xa Thủ đô, xa tổ ấm gia đình... Em luôn nhớ và chôn chặt trong lòng tất cả những hình ảnh, những kỷ niệm của những ngày thơ ấu đến khi lớn lên và giờ đây khi sống xa gia đình, xa quê hương, xa ba mẹ, chị em và bà con họ hàng, sống giữa tập thể những con người từ khắp nơi về đây để làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc… Bốn tháng vừa qua, thời gian trôi đi nhanh quá, em đã trở thành lính cựu rồi, quần áo đã bạc nhiều, người đen và chắc hơn. Em đã đem hết khả năng và lòng nhiệt tình của tuổi trẻ để học tập và công tác. Qua thời gian ngắn ngủi, 4 tháng thôi nhưng em đã tiếp thu và trang bị cho mình bao nhiêu điều bổ ích. Đó là kết quả của sự rèn luyện trong một trường đại học tổng hợp lớn nhất – “trường Đại học quân đội”. Từ những bài khoa học kỹ thuật chiến thuật đến tăng gia, văn hóa - văn nghệ, tổ chức, dân vận, hậu cần, chính trị, quần chúng, anh em và nhiều thứ nữa đều rất cần thiết cho người chiến sĩ…

Ông Phạm Khắc Miễn xúc động đọc lại những lá thư của người anh. Ảnh: Minh Tuệ

Bao giờ có dịp mấy chị em lại đi quán gió ăn bánh tôm nhỉ, và đi xem phim nữa? Bây giờ em ao ước được về Hà Nội một tý thôi, mỗi tin tức, mỗi bài hát, mỗi cuốn truyện ở đây đều quý giá vô cùng”.

Trong thư viết cho em Miễn (Tít), anh đã dự cảm về cái ngày mình sẽ ra đi vĩnh viễn: “Giờ đây thì đã rõ hơn rồi, anh đã hình dung được cuộc chia ly này, cuộc chia ly của những người lính đi xa và ở lại, cuộc chia ly không có một người thân thuộc nào để rồi đi không hẹn ngày trở về...” (Lá thư thứ 5, ngày 10-12-1974). Duyến xuất hiện như một người anh trai mẫu mực, với lời lẽ chân thành đã động viên em học hành, phấn đấu và gửi gắm những tâm sự thầm kín của mình: “Chuyện riêng của anh, em cũng hiểu thế thôi, đừng bận tâm làm gì. Sau này, nếu có gặp chị ấy thì nói rằng anh vẫn tôn trọng chị và chúc chị hạnh phúc…” (Lá thư thứ 7, ngày 10-1-1975). Trong thư gửi em trai, anh vẫn luôn hy vọng ngày trở về để được sum họp với gia đình, và ngày đó chính là mùa xuân của cả dân tộc “Em có nghe thấy không, bắt đầu vào mùa xuân của dân tộc ta rồi đấy, mùa xuân của “tin mừng thắng trận nở như hoa” ấy mà! Sang năm mới anh chúc em thật khỏe, học giỏi, tiến bộ và thành công trong cuộc sống. Năm 1975 đến với em là năm nở hoa rực rỡ của tuổi trẻ, của năm đầu tiến vào trường đại học và đầy hứa hẹn” (Lá thư thứ 7, ngày 10-1-1975).

Vậy mà chàng trai Hà Nội ấy đã không đợi được để đón một mùa xuân lớn trong cuộc đời mình, một mùa xuân không phải xa nhà, một mùa xuân không phải khắc khoải, đau thương. Ngày 17-3-1975, anh đã cùng với biết bao đồng đội của mình anh dũng hy sinh tại cửa ngõ Xuân Lộc…

Liệt sĩ Phạm Khắc Duyến sinh năm 1955 ở 36 Quang Trung (Hoàn Kiếm, Hà Nội). Năm 1963, anh lên ở cùng người bố đang công tác tại Khu gang thép Thái Nguyên. Học xong cấp 3, anh thi đỗ và về học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Tháng 6-1974, khi đang học năm thứ nhất, Phạm Khắc Duyến đã gác bút nghiên lên đường nhập ngũ. Sau ngày 30-4, gia đình vẫn nhận được những lá thư của Phạm Khắc Duyến gửi ra từ chiến trường miền Nam, nhưng sau đó mọi người mới hay tin anh đã hy sinh anh dũng tại Xuân Lộc từ trước ngày toàn thắng...

Đặng Vương Hưng (biên soạn)