QĐND - Ngày 30-4-1975 đã đi vào lịch sử giải phóng dân tộc, đập tan chế độ Mỹ-ngụy, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Để chuẩn bị cho kế hoạch vào Sài Gòn, tạo bàn đạp cho cánh Đông của chiến dịch, quân ta tổ chức thành nhiều mũi tiến công. Trong đó chiến thắng của trận đánh mở đường tại thị trấn Dĩ An, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc tỉnh Bình Dương) đã góp phần tạo nên thành công của Chiến thắng Mùa Xuân năm 1975.

Ông Lê Hữu Nghĩa, cựu chiến binh xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là một trong những chứng nhân lịch sử của trận đánh này. Sinh năm 1950, tròn 19 tuổi, ông lên đường nhập ngũ và được phân công công tác tại Tiểu đoàn 2, Sư đoàn 338, tham gia huấn luyện tại Ngọc Lặc, Thanh Hóa. Tháng 4-1970, ông cùng đồng đội hành quân vào đến phía Nam tỉnh Quảng Bình, giáp Vĩnh Linh, tham gia Chiến dịch đường 9 Khe Sanh Nam Lào, sau đó để nghi binh, đơn vị được lệnh quay trở lại Quảng Trạch, Quảng Bình. Từ năm 1970 đến đầu 1975, ông công tác tại mặt trận Quảng Bình, tham gia làm đường 22C từ Kỳ Anh (Hà Tĩnh) vào đến Tuyên Hóa (Quảng Bình).

Khi bắt đầu Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, với cương vị Đại đội trưởng, ông Nghĩa cùng Đại đội Sông Lam 11 hành quân chi viện và phối hợp với các đơn vị bạn tiến vào giải phóng Sài Gòn. Khoảng 4 giờ chiều 28-4-1975, đại đội của ông được lệnh đánh cây cầu thuộc thị xã Dĩ An, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc tỉnh Bình Dương), người dân địa phương thường gọi là cầu Dĩ An. Đây là đầu mối giao thông chính nối Biên Hòa và Sài Gòn, nằm cách trung tâm Sài Gòn hơn 30km. Cây cầu có vị trí quan trọng bởi chiếm giữ được cầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi mở đường cho quân ta tiến vào Sài Gòn theo hướng Đông Bắc, phối hợp với các cánh quân chủ lực khác.

Trận đánh cầu Dĩ An khi đó rất khó khăn, bởi đơn vị chỉ còn 46 tay súng, nhưng vũ khí còn khá đầy đủ. Đêm 28 rạng sáng 29-4, toàn đơn vị bắt đầu thực hiện kế hoạch đánh cầu. Lúc này, ông chỉ huy anh em ém quân ở đầu cầu phía Bắc. Tới 4 giờ sáng, đơn vị ông nhận được lệnh nổ súng với phương châm nhanh, mạnh, tốc chiến tốc thắng. Nhưng hai phía đầu cầu vẫn còn 4 lô cốt của địch dùng hỏa lực bắn xối xả. Ông ra lệnh chia thành 4 tiểu đội, mỗi tiểu đội từ 9 đến 10 chiến sĩ phụ trách tiêu diệt một lô cốt. Rồi tận dụng lúc trời mới tờ mờ sáng, các chiến sĩ ém quân chờ thời cơ, vừa di chuyển vừa phải cúi rạp người sát hai bên vệt đường để tránh gây sự chú ý của địch, sau đó xả súng bắn và lần lượt hạ được từng lô cốt. Sáng 29-4, đơn vị ông đã làm chủ cây cầu, mở đường cho các đơn vị tiến vào Sài Gòn.

Ông Lê Hữu Nghĩa nhớ lại: Trong những ngày đánh giữ cầu, có bà má người địa phương ngày ngày mang cơm, khoai sắn và những gì gia đình má có tới tiếp tế cho bộ đội. Má nhìn nét chữ trên cuốn sổ của một chiến sĩ trong đại đội tôi mà mắt rưng rưng, cầm tay anh và khóc. Má nói, má cũng có một người con đã đi bộ đội và hy sinh, má thương chúng tôi từ những điều giản dị: “Chữ các con đẹp quá, học giỏi thế này mà phải từ Bắc vào tận đây đánh giặc, cứu nước”.

Hơn 11 giờ ngày 30-4-1975, khi Đại đội Sông Lam 11 đang chốt giữ cầu thì nghe tin quân ta đã tiến được vào Dinh Độc Lập, mọi người vô cùng phấn khởi, hò reo. Lúc này, người qua lại trên cầu đã đông như mắc cửi, quân ta từ phía Đông Bắc tiếp tục hành quân vào, dân tị nạn từ hướng Sài Gòn chạy ra… Song tất cả không làm lu mờ được không khí hân hoan của chiến sĩ, đồng bào, người dân cầm những lá cờ đỏ sao vàng hoặc tất cả những mảnh vải, tấm giấy có màu đỏ buộc lên xe, chạy ra đường mừng chiến thắng. Trên gương mặt mọi người, ai ai cũng một nụ cười hạnh phúc rạng rỡ, nhiều người xa lạ vẫn tay bắt mặt mừng, ôm chặt lấy nhau như đã quen thân cùng chung niềm vui giải phóng.

Gần 40 năm đã trôi qua, song mỗi lần nhắc tới những kỷ niệm hào hùng của một thời kỳ lịch sử, trên gương mặt của người lính già vẫn không giấu được vẻ xúc động. Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 và trận đánh ấy sẽ mãi mãi in sâu trong ký ức của ông và đồng đội, như một minh chứng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân đội và nhân dân Việt Nam.

HIỀN HẠNH