Chu Văn An, hiệu là Tiều Ẩn, người xã Quang Liệt, nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Địa bàn này cách hồ Gươm hơn một chục cây số, nên rất thuận tiện cho mọi người về thăm nơi thờ ông, nơi có tượng bán thân và có những đôi câu đối nổi tiếng của ông, của những danh nho ca ngợi người thầy có một không hai trên đất Việt Nam ta.

Nhiều chính sử viết rằng: Chu Văn An vốn tính ngay thẳng, rất tinh thông lí học, có tài văn chương. Thời vua Trần Anh Tông (1293-1314) ông thi đậu Thái học sinh (tức Tiến sĩ), nhưng ông không ra làm quan mà chỉ ở nhà dạy học. Ông dựng ngôi trường tại làng Huỳnh Cung (chỉ cách nhà ông ở chưa đến một cây số), học trò các nơi đến học rất đông. Chính dưới mái trường quê nổi tiếng này, ông đã đào tạo biết bao nhân tài cho đất nước, trong đó có những người tiếng vang để đời như: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát (phố Phạm Sư Mạnh ở gần Ngân hàng Nhà nước và Nhà hát Lớn Hà Nội).

Thời Trần Mạnh Tông, khoảng niên hiệu Khai Thái (1314-1329), Chu Văn An được mời ra làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, một chức học quan trông coi ngôi trường cao cấp nhất trong cả nước thời bấy giờ. Đến thời Trần Dụ Tông (1341-1369) vua quan suy đồi, không còn giữ được phong khí của thời kháng chiến chống xâm lược, Chu Văn An bèn dâng sớ xin chém 7 tên quyền thần, nhưng Trần Dụ Tông không nghe; Chu Văn An liền từ chức, trở về quê tiếp tục dạy học như cũ. Sau đó ít lâu, Chu Văn An chuyển ra vùng núi Phượng Hoàng, Chí Linh, tỉnh Hải Dương (ngày nay) tiếp tục mở trường dạy học và sống cuộc đời ẩn dật, đúng như tên hiệu của ông: “Tiều Ẩn” (ông tiều ở ẩn).

Sự nghiệp lớn lao và vẻ vang nhất của ông là sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ của đất nước. Ông dành nhiều tâm huyết vào việc biên soạn sách giáo khoa. Ông cũng sáng tác thơ ca, đặc biệt là thơ nôm và số sách thuốc của ông cũng khá đồ sộ.

Số thơ của ông còn lại đến nay tuy rất ít, nhưng đều là những bài thơ hay, thể hiện tâm hồn thanh cao của một bậc hiền triết:

Ngư du cổ chiếu long hà tại?

Vân mãn không sơn hạc bất quy.

(Cá bơi cao cũ, rồng đâu tá?

Mây phủ non hoang, hạc chẳng về).

Đó là hai câu trong bài “Miết trì” (Ao ba ba). Thầy Chu Văn An  ngắm cảnh ao ba ba trên núi Phượng Hoàng mà chạnh lòng thương cảm thời thế. Hình ảnh rồng, hạc, hình ảnh vua sáng, tôi hiền, hình ảnh người quân tử cao đẹp thì vắng bóng, mà chỉ thấy bóng dáng thấp hèn, lũ cá tép, bọn gian nịnh thì vẫn nhởn nhơ đi lại...

Thơ của ông là cảm xúc lớn, của một tâm hồn lớn trước thế sự nước non.

Sử sách nói nhiều đến “học vấn tinh thần” của ông. Uy tín của Chu Văn An với đời không chỉ đóng khung trong tài học, mà chủ yếu là ở tiết tháo làm người, vì thế không những chỉ học trò mà nhân dân với giới trí thức đương thời đều kính mến ngưỡng mộ ông, coi ông như núi Thái Sơn, sao Bắc Đẩu của kẻ sĩ.

Phạm Sư Mạnh, Lê Quát... làm quan to trong triều mà vẫn lấy làm vinh dự được quỳ gối bên giường mỗi khi được đến thăm thầy họ Chu. Đặc biệt, đối với những học trò đã thành đạt mà có lỗi lầm thì thầy Chu Văn An cũng vẫn nghiêm khắc răn dạy. Tương truyền có lần Phạm Sư Mạnh đang giữ chức “Nhập nội thành khiển” (tức là chức quan gần như Tể tướng) về thăm thầy Chu, phải đi qua một cái chợ, lại là ngày phiên, nên kẻ bán người mua rất đông, khiến quân lính theo hầu vung roi, thét vào loa để giãn dân, mở đường cho kiệu của quan Hành khiển thênh thang nhẹ bước, khiến cả chợ huyên náo như ong vỡ tổ. Thầy Chu Văn An  biết được việc đó, đã chỉ vào mặt Phạm Sư Mạnh mà mắng rằng: “Về thăm thầy mà làm náo động cả bàn dân thiên hạ thì ta còn mặt mũi nào ngẩng mặt nhìn mọi người”. Đoạn thầy Chu Văn An phủi áo đi vào nhà trong. Phạm Sư Mạnh vừa sợ thầy, vừa hối hận với việc làm vừa rồi ở chợ nên cứ quỳ gối chờ thầy tha lỗi rồi mới xin cáo từ ra về. Từ đó, mỗi khi thăm thầy, Phạm Sư Mạnh chỉ mặc áo vải thâm và đi một mình như một thường dân...

Tài, đức của thầy Chu lừng lẫy một thời chẳng những đi vào sử sách mà còn đi vào kí ức dân gian như một huyền thoại. Sách “Lĩnh Nam chích quái” còn ghi lại truyền thuyết dân gian và “Thần châm Lân Đàm” phản ánh sự nghiệp của thầy Chu.

Tục truyền có một thần Rồng ở trong cái đầm của làng, thích học thầy Chu nên thường ngày hóa thành một chàng trai, tới trường Huỳnh Cung ngồi học tập. Có người rình nên biết được phép biến hóa thành người của Rồng, bèn mách với thầy Chu.

Gặp năm hạn hán lớn, lúa bị cháy, đồng thì nứt nẻ, dân chúng lo buồn khôn xiết. Thầy Chu bèn gặp người học trò ấy, bảo làm mưa để cứu dân. Anh học trò ấy liền đáp: “Việc mưa nắng là mệnh trời ai dám phạm, nhưng lệnh của Thầy con không dám cãi”. Nói rồi anh ta chấm bút vào đĩa mực và vẩy tứ tung lên trời, thế là trận mưa đổ xuống ào ào, đồng lúa xanh tốt, ao chuôm tràn nước. Nhưng bỗng có một tiếng sét rất to, tia chớp sáng rực cả bầu trời! Sáng hôm sau ở cái đầm đầu làng nổi lên xác con thuồng luồng, thầy Chu biết rằng anh học trò “Long Cung” ấy đã hi sinh vì dân làng, thầy Chu rất thương tiếc, bèn cùng dân xóm làm lễ an táng rất chu đáo. Đến nay phía ngoài lũy ven làng vẫn còn đống mả, tục gọi là Mả Thuồng Luồng, tên chữ là: “Cù Long Phụ”.

Đó chẳng qua là truyền thuyết về thầy Chu đã đồng hóa với cổ tích thần kì của mã thuật cầu mưa của dân gian cổ xưa. Nhưng qua màn sương huyền ảo này cho ta thấy truyền thống tôn sư trọng đạo rất quý báu của nhân dân ta đối với một người thầy mẫu mực của muôn đời: Thầy Chu Văn An.

Sau khi thầy Chu mất, dân làng đã lập đền thờ, gọi là đền đức Thánh Chu. Dẫu đã qua hàng mấy trăm năm nay, đến giờ ở đó (xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì)  hằng ngày vẫn nghi ngút khói hương của dân làng và của khách du lịch tới tham quan.

NGỌC MINH (Sưu tầm và biên soạn)