Cũng từ đây, đánh dấu sự ra đời của một lực lượng vận tải quân sự đặc biệt-Đoàn 759-Đoàn 125 Hải quân, với con đường chi viện trên biển, đích đến là những bến bãi, kho tàng được bố trí dọc theo bờ biển miền Nam. Con đường biển cùng với đường bộ chạy dọc dãy Trường Sơn hùng vĩ, trong suốt những năm tháng chiến tranh, ghi dấu biết bao chiến công oanh liệt của quân và dân ta. Hành trình nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam không dừng lại ở sự vận chuyển thông thường, mà trở thành biểu tượng của ý chí, quyết tâm, tài thao lược, trí thông minh, sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Độ lùi thời gian cùng với những tìm tòi, suy ngẫm về quá khứ cho phép chúng ta có đủ điều kiện để thấy rõ hơn tầm vóc, ý nghĩa của một thế trận đọ sức, đọ trí đầy cam go của quân và dân ta với quân thù; đồng thời, nhìn nhận sâu sắc thêm về nhân tố góp phần quyết định tạo nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

leftcenterrightdel
Tàu không số trên đường vận chuyển vũ khí vào miền Nam.  Ảnh tư liệu 

1. Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện nhãn quan nhạy bén, tài tình của Đảng và Bác Hồ

Quá trình hoạch định đường lối kháng chiến là quá trình Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, tỉ mỉ công tác chi viện chiến trường thông qua Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương. Ngay sau Hội nghị Trung ương 15 khóa II (năm 1959) quyết định đường lối cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, Bộ Chính trị đã trực tiếp chỉ đạo tổ chức mở tuyến đường Trường Sơn chi viện miền Nam (Đoàn 559). Không lâu sau đó, tuyến đường chi viện trên biển cũng được chỉ đạo tổ chức, xây dựng (tháng 7-1959).

Sự nhìn nhận từ sớm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về yêu cầu, nhiệm vụ, vị trí và vai trò của công tác chi viện chiến trường đã tạo bước phát triển vững chắc, mạnh mẽ cho cách mạng miền Nam. Con đường chi viện trên biển đã ghi dấu ấn quan trọng, thúc đẩy sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường, góp phần vào thắng lợi của những trận đánh gây tiếng vang lớn như: Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Bình Giã, Ba Gia, Vạn Tường...

Sự nối kết, chuyển tải sức mạnh của hậu phương đối với tiền tuyến đã được thực hiện hiệu quả thông qua con đường chi viện trên biển, nhất là trong điều kiện tuyến đường Trường Sơn chưa thể vươn tới những chiến trường, địa bàn xa hậu phương, sâu trong vùng địch tạm chiếm. Kết quả của sự phát triển thực lực kháng chiến ở miền Nam sau thắng lợi của Phong trào “Đồng khởi” (năm 1960) đã chứng tỏ rằng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở nắm bắt, lường định đúng xu thế phát triển của cuộc kháng chiến, chủ động, tích cực chuẩn bị thời cơ, lực lượng, tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, vững chắc của cách mạng; con đường chi viện trên biển đã có những đóng góp thiết thực trong quá trình ấy.

2. Đường Hồ Chí Minh trên biển góp phần kết nối chặt chẽ giữa hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam

Vấn đề xây dựng hậu phương chiến lược miền Bắc vững mạnh làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta. Đảng xác định, phải xây dựng miền Bắc thực sự trở thành "nền gốc" cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đồng thời, chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa hậu phương với tiền tuyến, tính chất, nhiệm vụ của từng miền trong thực hiện mục tiêu chung. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960) cũng chỉ rõ: Miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà; miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai...; xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng chính là xây dựng hậu phương cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Con đường vận tải biển đánh dấu sự hình thành bằng chuyến tàu đầu tiên chở 30 tấn vũ khí của Đoàn 759 rời Đồ Sơn (Hải Phòng), cập bến Vàm Lũng (Cà Mau), ngày 16-10-1962. Chứng tỏ quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương mở con đường vận chuyển chiến lược trên biển, tổ chức hoạt động chi viện từ miền Bắc cho miền Nam bằng đường biển là đúng đắn, kịp thời. Từ đây, con đường vận chuyển chiến lược trên biển, mặc dù trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, tổn thất, hy sinh nhưng vẫn được duy trì, kết nối chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng giữa hai miền Nam-Bắc, tiền tuyến với hậu phương.

Sự lớn mạnh của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa và thắng lợi của công tác chi viện chiến trường chính là nguồn cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần đồng bào, chiến sĩ miền Nam vượt qua bao khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Sự kết nối Bắc-Nam thực sự là biểu hiện sinh động của khối đại đoàn kết dân tộc, cùng phấn đấu vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

3. Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện sự sáng tạo trong tổ chức, sử dụng các phương thức vận chuyển chi viện miền Nam

Về tổ chức, ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng thành lập Đoàn 759, sau đó nâng quy mô và đổi tên thành Đoàn 125 (tháng 1-1964). Để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ, Đoàn 125 được tăng cường nhiều thuyền trưởng, thủy thủ, nhân viên kỹ thuật đào tạo cơ bản, hầu hết là đảng viên, đoàn viên, có sức khỏe, khả năng chịu đựng sóng gió, có bản lĩnh cách mạng kiên cường, xử lý khôn khéo, táo bạo các tình huống để giành thắng lợi trong từng chuyến đi.

Về phương tiện, ban đầu là những tàu gỗ gắn máy, sau đó là tàu sắt, nâng cao sức chở và tăng thêm về số lượng. Những con tàu của ta được cải dạng thành tàu đánh cá với những đặc điểm giống với ngư dân miền Nam, thậm chí cả tàu buôn của nước ngoài. Nhờ đó, những chuyến tàu không số đã vượt qua các bãi đá ngầm, sóng gió hiểm nguy và sự ngăn chặn, vây ráp của kẻ thù, đưa hàng đến các bến ven biển Nam Bộ và Khu 5 an toàn.

Sau sự kiện Vũng Rô, Phú Yên (tháng 2-1965), yếu tố bí mật, bất ngờ đã không còn, Quân chủng Hải quân xác định phương án vận chuyển theo phương thức mới: Đi xa bờ, bằng phương pháp hàng hải thiên văn. Đoàn 125 sử dụng tàu đi xa bờ, xen lẫn vào dòng tàu buôn ngược xuôi ngoài Biển Đông, nhiều lần gặp khó khăn, tổn thất, do địch tăng cường vây ráp, đánh phá, song nhờ tổ chức phù hợp, khéo léo, kiên quyết, dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ, ta đã đưa hàng chục nghìn cán bộ, vận chuyển hàng trăm nghìn tấn vũ khí vào chiến trường bằng đường biển, đáp ứng kịp thời cho quân và dân miền Nam chiến đấu giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

4. Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện việc phát huy cao độ nhân tố con người với bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sự mưu trí, dũng cảm hiếm có của cán bộ, thủy thủ Đoàn tàu không số

Không có bản lĩnh chính trị vững vàng thì không thể thực hiện được nhiệm vụ gian khó đặt ra, nhất là trong buổi đầu hình thành lực lượng vận tải quân sự đường biển, vấn đề soi đường, thông đường, tổ chức chuẩn bị phương tiện, bến bãi. Đó quả là quá trình tìm tòi, khảo nghiệm công phu, đồng thời là sự thử thách ý chí, quyết tâm của cả một tập thể, từ người chỉ huy cho đến thủy thủ, sự phối hợp ăn khớp giữa hậu phương và tiền tuyến. Trên những con tàu nhỏ, trang thiết bị hạn chế, cán bộ, thủy thủ phải đối mặt với sóng to, gió lớn, với sự ngăn chặn gắt gao của quân thù, đòi hỏi phải có tinh thần chịu đựng gian khổ, trong tình huống hiểm nghèo, phải chấp nhận hy sinh tính mạng để giữ bí mật của tuyến đường.

Những con người can trường trong đội ngũ cán bộ, thủy thủ của Đoàn tàu không số lúc đầu phần lớn quê ở các địa phương miền Nam tập kết ra Bắc, một số vốn quen với nghề đi biển, chịu đựng được sóng gió, điều khiển tàu chủ yếu bằng kinh nghiệm. Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ, sự phát triển quy mô vận chuyển, nên trong thành phần đội ngũ sĩ quan, thủy thủ, nhân viên kỹ thuật của đoàn vận tải sau này hầu hết được đào tạo cơ bản, là những đảng viên, đoàn viên, vừa có tri thức, sức khỏe, có khả năng chịu đựng gian khổ, bản lĩnh cách mạng kiên cường, vừa có quyết tâm cao, kinh nghiệm dày dạn. Đây chính là những cán bộ, chiến sĩ được đào tạo, rèn luyện, trưởng thành trong các cơ quan, đơn vị, nhà trường miền Bắc, trở thành nguồn nhân lực quan trọng đảm đương nhiệm vụ nặng nề mà Đảng, quân đội và nhân dân giao phó.

Trên những chuyến tàu không số, nhiều cán bộ chỉ huy, thuyền trưởng, chính trị viên, thuyền phó đã xử trí tài tình, mưu trí, điều khiển con tàu giữ vững hành trình vào Nam, đối phó linh hoạt với các tình huống xảy ra. Có thể kể ra những cán bộ, như: Hồ Đắc Thạnh, Nguyễn Văn Cứng, Lê Văn Thêm, Đinh Đạt, Phạm Vạn, Nguyễn Hữu Phước, Nguyễn Ngọc Ẩn... Đó là những tấm gương mẫu mực về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trình độ hàng hải vững vàng, điều khiển những con tàu vượt qua các bãi đá ngầm, sóng gió hiểm nguy và nhất là sự phong tỏa ngăn chặn, đánh phá ác liệt của kẻ thù, đưa nhiều chuyến tàu chở vũ khí cập bến an toàn. Khi gặp địch bao vây bốn phía, cán bộ và chiến sĩ trên tàu đã dũng cảm chiến đấu và hy sinh giữa biển cả mênh mông để giữ bí mật con đường, như các đồng chí: Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Văn Hiệu...

Suốt 15 năm ròng rã (1961-1975), thực hiện vận chuyển chiến lược bằng đường biển chi viện cho miền Nam, cán bộ, chiến sĩ hải quân đã lập nhiều chiến công xuất sắc, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tạo dựng nên một con đường huyền thoại trên biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.

Kỷ niệm 60 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao to lớn, sự hy sinh cao cả của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu không số. Đó là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Những thành tích và bài học kinh nghiệm về Đường Hồ Chí Minh trên biển là di sản vô cùng quý báu, phải được giữ gìn và tiếp tục phát huy, phát triển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thượng tướng NGUYỄN THÀNH CUNG, Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng