Mừng vì giá, lo vì thương hiệu

Những năm gần đây, lượng gạo Việt Nam XK chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo XK toàn thế giới. Năm 2017, Việt Nam tiếp tục là nước XK gạo đứng thứ ba thế giới, sau Ấn Độ và Thái Lan. Đến nay, gạo Việt Nam đã có mặt ở gần 150 quốc gia và vùng lãnh thổ với các sản phẩm khá đa dạng, như: Gạo hạt dài, gạo hạt ngắn, gạo thơm, gạo đồ, gạo hữu cơ… Đáng chú ý, gạo Việt Nam bước đầu thâm nhập được vào những thị trường có yêu cầu cao, như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu… Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho rằng, những tiến bộ trong sản xuất, cơ cấu giống, mùa vụ cùng với những biện pháp canh tác thích hợp từng bước nâng cao chất lượng gạo Việt Nam. Bên cạnh đó, Chính phủ vừa thông qua Nghị định số 107/2018/NĐ-CP về XK gạo (có hiệu lực từ ngày 1-10-2018) thay thế cho Nghị định số 109/2010/NĐ-CP, điều này được dự báo sẽ tạo cho DN sự hứng khởi tham gia vào thị trường XK khi nhiều thủ tục hành chính được cắt giảm.

Thống kê của Bộ Công Thương cho thấy, nhiều thời điểm trong năm, giá gạo Việt Nam cùng chủng loại bằng hoặc cao hơn 50-100 USD/tấn so với gạo Thái Lan, Pakistan, Ấn Độ. Theo Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) Trần Thanh Hải, tiếp đà tăng trưởng năm 2017, tăng trưởng XK gạo tiếp tục được duy trì trong năm 2018 về cả sản lượng và giá. Tính đến ngày 15-9, XK gạo đạt 4,73 triệu tấn, tăng 9,3%, trị giá 2,38 tỷ USD, tăng gần 25%. Giá FOB (giá tại cửa khẩu của bên xuất) bình quân 503,3 triệu USD/tấn, tăng 62,4USD/tấn so với cùng kỳ năm trước. Dự kiến, cả năm 2018, XK gạo sẽ đạt con số 3,2-3,3 tỷ USD. “Giá FOB XK bình quân tăng hơn 62 USD/tấn là mức tăng cao nhất từ trước tới nay, khẳng định chất lượng hạt gạo Việt Nam ngày càng được công nhận”, ông Trần Thanh Hải nhấn mạnh.

Các kỹ sư của Tập đoàn Lộc Trời kiểm tra quy trình sản xuất lúa gạo áp dụng công nghệ cao.

Bắt đầu từ nguồn giống và quy trình sản xuất

XK gạo có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng thẳng thắn nhìn nhận, nhiều năm qua gạo Việt Nam vẫn chưa xây dựng được thương hiệu. Chủ yếu người tiêu dùng cuối cùng sử dụng gạo Việt Nam nhưng thông qua một thương hiệu khác. Cùng với đó, theo ông Trần Thanh Hải, mặc dù cơ cấu XK gạo có nhiều thay đổi tích cực, nhưng gạo trắng cấp thấp vẫn chiếm hơn 30%. Thời gian tới, Việt Nam định hướng sẽ giảm gạo phẩm cấp thấp, nâng cao thị phần gạo thơm, gạo đặc sản. 

Theo nhiều ý kiến, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới sâu rộng, thị trường yêu cầu chất lượng sản phẩm ngày càng cao hơn, ngành lúa gạo muốn phát triển bền vững, có thương hiệu đòi hỏi sản phẩm phải có chất lượng, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Do đó, cần phải có giải pháp tổng thể; cụ thể, phải xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất, tổ chức sản xuất theo quy trình chuẩn, đồng bộ từ khâu giống, canh tác, thu hoạch, chế biến, đóng gói… theo quy trình sạch, gạo hữu cơ. “Trước mắt, việc quan trọng hàng đầu là nâng cao giá trị giống lúa, phát triển giống lúa theo nhu cầu của thị trường. Các DN cần sự đầu tư mạnh mẽ của Nhà nước cho công tác nghiên cứu chọn tạo giống lúa thơm chất lượng cao, tạo lợi thế cho XK”, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu lúa Đồng bằng sông Cửu Long Nguyễn Thúy Kiều Tiên nêu rõ.

Trên thực tế, Việt Nam vẫn chưa chọn ra được một giống lúa tốt chủ lực, đang XK rất nhiều loại gạo khác nhau. Điều này sẽ hạn chế tính cạnh tranh, xây dựng thương hiệu. Trong khi đó, ở các nước, việc xây dựng một loại gạo mang tính cạnh tranh cao được quan tâm hàng đầu. Điển hình như Campuchia, mặc dù đi sau Việt Nam về sản xuất và XK gạo, nhưng hiện nay, Campuchia đã có gạo thơm Phka Romdoul nổi tiếng thâm nhập thị trường các nước khó tính, như: Châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản. “Có được thành công này là do Campuchia biết cách làm thương hiệu thông qua chọn một vài dòng sản phẩm chất lượng cao để tập trung sản xuất chứ không làm đại trà. Campuchia xác định mục tiêu khách hàng là ai và nỗ lực tạo sự tin tưởng về chất lượng và tính chuyên nghiệp”, ông Seang Dara, Giám đốc Công ty First Packaging Partner (Campuchia) chia sẻ với chúng tôi bên lề một hội thảo về xuất khẩu gạo do Bộ Công Thương tổ chức mới đây.

Ngoài việc phát triển nguồn giống, từ góc nhìn của DN trong nước tham gia sản xuất và XK gạo, ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Lộc Trời chia sẻ, kinh nghiệm từ Lộc Trời cho thấy, để gạo Việt Nam có thương hiệu và cạnh tranh được trên thị trường phải áp dụng phương thức sản xuất theo chuỗi giá trị bền vững. Khi đó, DN và người dân cùng nhau quy hoạch, tập trung nguyên liệu, sản xuất tập trung theo loại hình cánh đồng mẫu lớn, liên kết các hộ sản xuất nhỏ lại thành hộ sản xuất lớn, thành hợp tác xã. Chính nhờ sự liên kết này, chất lượng gạo sẽ được kiểm soát chặt chẽ, tạo sự tin tưởng, an tâm cho người sản xuất. Do đó, DN rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước để phối hợp với người nông dân và các nhà nghiên cứu khoa học để tạo ra vùng sản xuất rộng lớn.

Bài và ảnh: VŨ DUNG