QĐND - Là một trong những xã ven biển của huyện Giao Thủy (tỉnh Nam Định), Giao Xuân đang từng bước phát huy thế mạnh trong nghề nuôi trồng thủy, hải sản, đặc biệt là việc nuôi ngao thương phẩm. Hy vọng đổi đời vừa nhen nhóm chưa được bao lâu, người dân nơi đây lại điêu đứng khi đối mặt với thực trạng ngao thương phẩm không thể tiêu thụ được.

Với diện tích bãi bồi lên đến gần 700ha, trong đó có khoảng 295ha là đất nuôi ngao (đất đủ điều kiện nuôi trồng), xã Giao Xuân luôn đứng đầu huyện về diện tích và sản lượng nuôi ngao trong nhiều năm qua. Trên địa bàn xã có hơn 280 hộ nuôi ngao, tuy nhiên con số này có xu hướng tăng trong 3 năm trở lại đây.

Ông Trần Văn Tùng, Phó chủ tịch UBND xã Giao Xuân cho biết: “Nhận thấy việc nuôi ngao mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhiều bà con đổ xô đi thuê đầm, bãi và mua con giống về thả. Cộng với việc ngày nay người dân có thể tự nhân giống nên nghề nuôi ngao có xu hướng tăng cả về diện tích và số hộ nuôi”.

Một đầm nuôi ngao của người dân ở xã Giao Xuân, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.

Ông Trần Văn Hà (xóm Thị Tứ, xã Giao Xuân), người có gần 20 năm kinh nghiệm trong nghề, chia sẻ: “Nuôi ngao chẳng khác nào đánh bạc với trời, mỗi lần có bão lớn đổ về là coi như mất hết. Sau mỗi cơn bão, ngao thường bị sóng cuốn trôi hoặc bị đánh dạt sang bãi của nhà khác. Có những chủ ngao đầu tư hàng tỷ đồng rồi bị mất trắng chỉ sau một trận bão”. Những năm gần đây, tình hình mưa bão ở nước ta có nhiều biến động phức tạp, sự xuất hiện ngày càng nhiều trận bão lớn đe dọa nghiêm trọng cuộc sống và việc canh tác của những ngư dân “bám đất bám biển” nơi đây. Ngoài ra, hiện tượng thời tiết cực đoan như nồm hay nắng nóng kéo dài khiến ngao không hấp thụ được nguồn thức ăn cũng là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng ngao chết hàng loạt”.

Nuôi ngao đã khó, tính chuyện đầu ra cho con ngao càng khó hơn. Từ năm 2010-2012, Trung Quốc được xác định là thị trường trọng điểm tiêu thụ ngao chiếm đến hơn 50% sản lượng ngao xuất khẩu. Cũng trong thời điểm đó, giá bán ngao lên đến 24.000 - 26.000 đồng/kg loại 60 con/kg, sau khi trừ chi phí, người dân thu về hơn 130 triệu đồng/ha. Thế nhưng, từ năm 2013 trở lại đây, thị trường bất ngờ “tụt dốc”, các hộ nuôi ngao rơi vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”, bán thì không đủ vốn, mà giữ lại ngày nào thì ảnh hưởng đến thời gian ương nuôi giống mùa sau. Thế là, một số chủ hộ nuôi đành bán tháo ra thị trường với giá 13.000 - 14.000 đồng/kg, có thời điểm xuống còn 10.000 đồng/kg.

Ngao rớt giá cũng khiến cho thu nhập của người làm thuê giảm đi một nửa. Chị Nguyễn Thị Len ở xóm Thị Tứ, xã Giao Xuân tâm sự: “Ngày trước, giá thuê nhân công cào ngao trung bình là 200.000 đồng/ngày, giờ giảm xuống chỉ còn 100.000 - 110.000 đồng/ngày, đó là chưa kể có những đợt nhân công bị cắt giảm do giá ngao xuống quá thấp. Bây giờ hiện đại hơn, người ta dùng máy để xúc ngao, người thuê không đáng mấy nên không có việc để làm”.

Không chỉ chủ ngao lo lắng mà cuộc sống của những người canh chòi ngao trên biển cũng thấp thỏm theo sự khó khăn, rủi ro của nghề này. Hầu hết những người có bãi ngao đều phải dựng chòi ngoài khơi để thuận tiện cho việc trông coi, chi phí cho mỗi chòi vào khoảng 18- 20 triệu đồng. Ở những bãi bồi cách xa đất liền hàng chục cây số như Cồn Lu, Cồn Ngạn, ở chòi người ta khoan giếng có độ sâu hơn 100m để lấy nước sinh hoạt. Vì nước ít nên mọi sinh hoạt cũng phải hạn chế tới mức tối đa, chủ yếu là phục vụ nấu nướng. Mang tiếng là canh chòi ngao nhưng công việc của những người làm thuê ở đây thì không chỉ đơn giản như vậy. Thông thường, người canh chòi được trả với giá 3-3,5 triệu đồng/tháng, nhưng vì đặc thù công việc là làm dựa theo sự lên xuống của con nước nên bất kể sáng sớm hay tối mịt, người lao động đều phải ra bãi, nước cạn đến đâu thì làm đến đó, có khi phải làm cả đêm…

Một trong những nguyên nhân khiến cho số lượng ngao thương phẩm trên địa bàn xã suy giảm đó là do ô nhiễm môi trường biển. Bàn về vấn đề này, ông Trần Văn Tùng cho biết thêm: “Độ mặn của nước biển có xu hướng tăng từ 20-25‰ lên 30-31‰ nên các sinh vật phù du ngày càng khan hiếm. Ngoài ra việc lạm dụng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật… đang tác động xấu đến môi trường, môi sinh trên địa bàn”.

Trước những khó khăn chồng chất của ngư dân, chính quyền địa phương đã tích cực hỗ trợ bằng các biện pháp cụ thể như cho thuê đầm, bãi với mức giá hợp lý. Cùng với việc hỗ trợ các hộ dân mở rộng diện tích, ngành khuyến ngư còn chủ động phổ biến kỹ thuật nuôi trồng tiên tiến đến cho người dân. Ngoài ra, liên kết với ngân hàng nông nghiệp tạo điều kiện cho người dân vay vốn với số tiền lớn, lãi suất thấp. Nhưng để giải bài toán đầu ra của ngao thương phẩm, chính quyền địa phương cần chủ động hơn trong việc kết hợp sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Cụ thể là kết hợp với các doanh nghiệp trong nước để tìm thị trường ổn định, lâu dài cho con ngao của địa phương mình.

Bài và ảnh: TRẦN THỊ KIM ANH