QĐND - Nhiều người cho rằng, thất thoát, lãng phí tiền của của Nhà nước từ chất lượng các quy hoạch còn lớn hơn nhiều so với những thất thoát trực tiếp từ tham nhũng. Mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng có một sự thật là chỉ một nét vẽ sai trong một bản quy hoạch, mà đất nước và cuối cùng vẫn là người dân có thể phải trả giá bằng hàng nghìn tỷ đồng. Đã đến lúc phải thắt chặt kỷ cương, trật tự, nâng cao chất lượng trong khâu lập quy hoạch.
Sửa vài nét vẽ, giảm được hơn 4000 tỷ đồng
Dự án Hầm đường bộ nối hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa đã được lập quy hoạch và thông qua với dự toán ban đầu khoảng 20.000 tỷ đồng. Sau khi phân tích thực địa, chủ đầu tư đã điều chỉnh hướng tuyến của hầm theo phương án mới, dù làm tăng 1km chiều dài đường, nhưng lại giảm được 2km chiều dài hầm trong tổng chiều dài toàn dự án hơn 13,4km, trong đó phần hầm dài gần 4km. Tính toán cho thấy, chỉ bằng vài nét bút điều chỉnh quy hoạch về kỹ thuật đã cho phép giảm mức đầu tư dự án thực tế chỉ còn 15.603 tỷ đồng (tức tiết kiệm tới 22% vốn so với dự toán của phương án ban đầu), cũng như góp phần giảm nguy cơ rủi ro gắn với các điều kiện địa hình và địa chất phức tạp… Những ví dụ tiết kiệm được hàng nghìn tỷ đồng vốn đầu tư nhờ nâng cao chất lượng quy hoạch như vậy không phải là hiếm hoi trong thực tế trên phạm vi cả nước. Điều này, nhìn ngược lại cũng cho thấy bức tranh khá bức xúc về tình trạng lãng phí các nguồn lực xã hội từ lỗ thủng chất lượng quy hoạch.
 |
 |
|
UBND thành phố Hồ Chí Minh mới công bố Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội TP Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025. Ảnh: TTXVN
|
Cả nước hiện có hơn 1.700 dự án đô thị “đắp chiếu”, trong khi thị trường nhà ở xã hội giá thấp vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của hàng triệu người dân. Tình trạng này một phần là do thiếu quy hoạch chung hợp lý về bất động sản, cũng như do tâm lý đầu tư đầu cơ, chụp giật và ham đánh quả lớn, thu lợi đậm, làm giàu nhanh. Sự tồn tại và biến mất của một loạt dự án sân gôn hay nhiều dự án “khủng” khác cũng là những minh chứng điển hình theo cách nào đó cho tình trạng lạm phát quy hoạch tùy tiện, dễ dãi, lập quy hoạch vì những lợi ích ngầm.
Thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, đến năm 2013, cả nước có 8.955 dự án quy hoạch thuộc mọi lĩnh vực ở cấp Trung ương lẫn địa phương. Theo kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tới năm 2020, cả nước sẽ có 19.285 quy hoạch được lập (trong đó, quy hoạch của xây dựng và đô thị chiếm 63%, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội chiếm 22%, quy hoạch sử dụng đất chiếm 15%) và đòi hỏi số vốn đầu tư cả triệu tỷ đồng (riêng tổng nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng các dự án theo quy hoạch cả giai đoạn 2011-2020 là khoảng 5,9-6,1 triệu tỷ đồng, tính theo giá thực tế thì con số này vào khoảng 9,5-9,7 triệu tỷ đồng).
Cần có Bộ luật Quy hoạch
Khối lượng đồ sộ và nhu cầu bức thiết lập quy hoạch là như vậy. Hệ thống quy phạm pháp lý liên quan đến công tác quy hoạch cũng “hoành tráng” không kém. Cả nước hiện có 51 văn bản luật của Quốc hội; 7 pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội kèm theo 56 văn bản nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành; 25 nghị định kèm theo hàng loạt thông tư, quyết định của Trung ương, địa phương liên quan điều chỉnh hoạt động quy hoạch. Tuy nhiên, như nhiều ý kiến phản biện của các chuyên gia và nhà quản lý đã chỉ ra, Việt Nam mới chỉ có Luật Quy hoạch đô thị (Luật số: 30/2009/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17-6-2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2010) và vẫn thiếu Bộ luật Quy hoạch, với các tiêu chí tiếp cận và tuân thủ những cam kết hội nhập và thông lệ quốc tế, tạo khung pháp lý cơ bản quản lý thống nhất quy trình, nội dung và nâng cao chất lượng các loại hình quy hoạch đa dạng, tránh lãng phí do đầu tư chồng chéo và bảo đảm kiểm soát tính thống nhất lãnh thổ theo chiến lược và kế hoạch của từng giai đoạn, bảo đảm cho quy hoạch thực hiện được chức năng dẫn đường cho phát triển hiệu quả bền vững cả cấp vĩ mô và vi mô, quốc gia, địa phương và doanh nghiệp.
Hơn nữa, một thời gian khá dài, do phân cấp quản lý quy hoạch và đầu tư nói riêng, quản lý nhà nước nói chung còn khá cực đoan, chuyển mạnh đột ngột từ tính chất quá tập trung, ôm đồm thời bao cấp sang nghiêng về đề cao phân quyền thái quá cho địa phương, bất chấp năng lực và cơ chế kiểm soát chất lượng quy hoạch ở địa phương còn nhiều bất cập. Hơn nữa, trong quy trình và yêu cầu lập quy hoạch còn tách rời giữa lập quy hoạch với bảo đảm cân đối các nguồn vốn đầu tư cần thiết cho triển khai quy hoạch. Điều này làm bùng nổ một “cuộc đua quy hoạch” giữa các địa phương và ngành, cũng như giữa các nhiệm kỳ lãnh đạo ngay trong một địa phương, một ngành. Thậm chí, đã có nơi, có lúc số lượng quy hoạch, dự án được thông qua vừa được coi là thành tích, kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy”, vừa là kênh “làm ăn” của một số cá nhân và nhóm lợi ích đủ loại bám theo quy hoạch và dự án. Nhiều khi quy hoạch là thể hiện ý chí, sự “lãng mạn” và gắn với “tư duy nhiệm kỳ”. Việc thiếu Bộ luật Quy hoạch và chạy đua quy hoạch cả về số lượng và thời gian, hình thức hóa trình tự, phạm vi và nội dung quy hoạch… dẫn tới chất lượng quy hoạch bị buông lỏng và gia tăng phong trào “xin điều chỉnh, bổ sung quy hoạch” dù chúng mới ban hành. Số lượng quy hoạch lập ngày càng nhiều, nhưng không đồng bộ, thiếu thống nhất, thiếu sự liên kết, phối hợp liên ngành và giữa các loại quy hoạch trên một lãnh thổ, cũng như tình trạng chồng lấn, mâu thuẫn giữa các quy hoạch tổng thể vùng-tỉnh, quy hoạch tổng thể vùng-quy hoạch ngành, các quy hoạch ngành với nhau và ngay trong cùng một ngành... Hơn nữa, nhiều quy hoạch thiếu cả cơ sở khoa học lẫn tầm nhìn dài hạn và chưa gắn kết chặt chẽ phát triển vùng, miền với địa phương, không gắn với nguồn lực thực tế, nên sau khi phê duyệt không được thực hiện, hoặc triển khai thực hiện không đúng quy hoạch, song vẫn không bị kiểm tra, giám sát, xử lý và cũng không có đánh giá quy hoạch sau khi hết kỳ quy hoạch. Sự lãng phí do lỗ hổng từ chất lượng dự án không chỉ là hiệu quả tiền vốn đã, đang và sẽ đầu tư, mà còn là sự ứ đọng các nguồn lực đất đai, lao động và mất việc làm của những người dân có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến quy hoạch. Hơn nữa, điều này còn là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp của tình trạng gia tăng quy mô và tăng mất cân đối nguồn đầu tư công.
Nâng cao chất lượng quy hoạch, thiết kế không chỉ thể hiện sự chủ động, năng lực kỹ thuật và trách nhiệm xã hội, mà còn thể hiện cách tư duy mới và cách làm mới, tích cực, đề cao tính tiết kiệm, mang lại hiệu quả kinh tế lớn và hiệu quả tổng thể trong các dự án xây dựng ở nước ta. Nói cách khác, tiết kiệm vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả các nguồn lực xã hội trước hết cần bắt đầu từ đổi mới tư duy và hoàn thiện cơ sở luật pháp về quy hoạch. Theo đó, cần ngay từ đầu coi trọng cơ sở thực tế, khoa học và chất lượng nghiệp vụ khâu thiết kế kỹ thuật như là tiền đề và giải pháp quan trọng nhất bảo đảm hiệu quả và tiết kiệm vốn, cũng như phòng tránh các hiện tuợng đội vốn, điều chỉnh vốn sau đấu thầu, như đã và đang xảy ra đối với nhiều dự án tổng thầu.
Nếu hàng trăm, hàng nghìn dự án xây lắp trong các lĩnh vực và địa phương đã, đang và sẽ tiếp tục được xây dựng, triển khai trên cả nước được quán triệt tinh thần, cách nghĩ, cách làm mới, bịt được các lỗ thủng chất lượng quy hoạch, thiết kế, thì rõ ràng các khoản tiết kiệm đầu tư cho ngân sách Nhà nước và hiệu quả sử dụng các nguồn lực chung cho xã hội sẽ lớn biết bao…
TS NGUYỄN MINH PHONG