Rừng mất, thiên tai tăng
Thảo luận tại hội trường Quốc hội tại Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XV, các đại biểu dẫn chứng thiên tai không chỉ gia tăng về cường độ mà còn bất thường, khó dự đoán hơn, phản ánh tác động rõ rệt của biến đổi khí hậu toàn cầu và sự suy giảm của hệ sinh thái trong nước.
Đại biểu Nguyễn Minh Sơn (đoàn Đồng Tháp) dẫn chứng, năm 2024, thiên tai đã làm 519 người chết và mất tích, gấp hơn 3 lần so với năm 2023, và gấp 2,47 lần so với trung bình 10 năm. Thiệt hại về kinh tế ước tính khoảng 89.089 tỷ đồng, gấp hơn 9,5 lần so với năm 2023 và gấp 4,2 lần trung bình 10 năm (2014-2023).
Tính từ đầu năm 2025 đến nay, nước ta đã trải qua 20 loại hình thiên tai, bao gồm 11 cơn bão và 4 áp thấp nhiệt đới, gây thiệt hại ước tính khoảng 39.788 tỷ đồng; hơn 245.934 căn nhà bị hư hỏng, tốc mái; hàng triệu gia súc, gia cầm bị chết và hàng trăm nghìn héc-ta hoa màu bị thiệt hại. Các số liệu này chưa tính đến thiệt hại tại các tỉnh, thành phố Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Ngãi đang diễn ra những ngày qua.
 |
| Cán bộ, chiến sĩ Bộ CHQS tỉnh Tuyên Quang đưa người dân ở vùng ngập sâu đến vị trí an toàn. Ảnh: CHUNG THỦY |
Nêu tình trạng sạt lở đất, lũ quét ở vùng đồi núi gia tăng và gây hậu quả nặng nề, đại biểu Trịnh Minh Bình (đoàn Vĩnh Long) phân tích, nguyên nhân chính là do đặc điểm địa hình nước ta có nhiều vùng đồi núi dốc, địa chất yếu. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, mưa lớn kéo dài, lượng mưa lớn trong thời gian ngắn khiến sạt lở xảy ra thường xuyên, khó dự báo và khó kiểm soát.
Một nguyên nhân được đại biểu nhìn nhận đó là tác động của con người: Nhiều khu dân cư hình thành trên sườn đồi, ven suối mà không có khảo sát địa chất; bất cập trong công tác quy hoạch, năng lực dự báo còn hạn chế; hạ tầng phòng, chống thiên tai chưa đáp ứng yêu cầu.
Nêu ra mối liên kết giữa rừng và thiên tai, các đại biểu cũng cho rằng, rừng là nguồn sống, là tấm lá chắn vững chắc bảo vệ con người khỏi những biến động khắc nghiệt của tự nhiên. Những cánh rừng đầu nguồn giúp giữ nước, chống xói mòn, hạn chế sạt lở và điều hòa khí hậu. Thế nhưng, trong khi chúng ta nói rất nhiều về “phủ xanh đồi trọc”, diện tích rừng tự nhiên vẫn đang bị thu hẹp từng ngày.
Cần đặc biệt lưu tâm các giải pháp giữ rừng, trồng rừng
Từ những phân tích trên, về giải pháp trước mắt, các đại biểu đề nghị Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành cần quan tâm điều tra, rà soát toàn bộ các khu dân cư đang sinh sống tại khu vực có nguy cơ sạt lở, lũ quét; lập bản đồ cảnh báo rủi ro thiên tai đến từng xã, thôn, hộ dân, từ đó di dời và sắp xếp dân cư theo hướng tập trung, an toàn, thuận lợi cho sinh kế, giao thông và dịch vụ công. Cùng với đó, cần có bộ tiêu chuẩn xây dựng riêng cho vùng có nguy cơ thiên tai, mọi công trình phải được khảo sát địa chất, đánh giá tác động môi trường, thiết kế chống sạt lở...
Về giải pháp căn cơ, lâu dài, đại biểu đề nghị cần chú trọng phục hồi và phát triển rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ – giải pháp căn cơ, lâu dài. Cần giao khoán rừng cho cộng đồng và hộ dân để người dân thực sự sống được bằng nghề giữ rừng.
"Rừng chính là lá chắn tự nhiên giúp giữ đất, chống sạt lở, bảo vệ môi trường và sinh kế cho vùng đồi núi", đại biểu Trịnh Minh Bình nhấn mạnh.
Theo đại biểu Nguyễn Lân Hiếu (đoàn Gia Lai) giá trị to lớn của rừng đã được khẳng định trong rất nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước, nhưng diện tích rừng tự nhiên vẫn bị thu hẹp từ năm này sang năm khác và chưa có dấu hiệu dừng lại. Thực trạng này cho thấy kế hoạch chuyển đổi rừng cho mục đích phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều tỉnh, thành phố Việt Nam vẫn cần được cân nhắc, tính toán. Cùng với đó, cần có kế hoạch cụ thể hơn về tình hình bảo vệ rừng tự nhiên, trong đó nêu rõ bao nhiêu diện tích rừng sẽ được sử dụng trong tương lai, kế hoạch trồng lại như thế nào, trồng cây gì; kế hoạch trồng rừng để sản xuất cũng rất cần phải có quy hoạch cụ thể.
Dẫn chứng bài học từ các nước trên thế giới, như Na Uy có hẳn điều luật chống phá rừng, Trung Quốc cũng đã có rất nhiều cải tiến trong việc trồng rừng và bảo vệ rừng, ông Hiếu cho rằng, Việt Nam là một quốc gia trong top chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, nên phải đặc biệt lưu tâm các giải pháp để bảo vệ rừng.
Có đại biểu đề nghị cần đưa chương trình, nhiệm vụ dự án bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai (sạt lở bờ sông, bờ biển, hạn hán, xâm nhập mặn, nước biển dâng) vào nhóm ưu tiên ngang bằng với chương trình, nhiệm vụ dự án quốc phòng, an ninh, tư pháp, giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
 |
| Đại biểu Nguyễn Minh Sơn (đoàn Đồng Tháp) phát biểu thảo luận tại Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XV. |
Xây dựng cơ chế tài chính hiện đại và bền vững cho phòng, chống thiên tai
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và thiên tai ngày càng diễn biến phức tạp, vấn đề nguồn lực tài chính cho phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai đang trở thành mối quan tâm lớn tại Quốc hội. Các đại biểu cho rằng, nếu không có cơ chế tài chính chủ động, hiệu quả và minh bạch, công tác phòng, chống thiên tai sẽ mãi chỉ dừng lại ở mức “chữa cháy” thay vì “phòng ngừa rủi ro”.
Tại phiên thảo luận, đại biểu Nguyễn Minh Sơn (Đoàn Đồng Tháp) nhận định, nước ta dù đã hình thành nhiều công cụ tài chính quan trọng trong phòng, chống thiên tai, song hiệu quả sử dụng chưa cao, còn thiếu sự phối hợp tổng thể giữa các bộ, ngành và địa phương.
Đại biểu cho rằng, cần cải cách cơ cấu chi ngân sách, chuyển mạnh từ chi cho khắc phục hậu quả sang đầu tư cho phòng ngừa, giảm nhẹ rủi ro và tăng khả năng chống chịu. Việc đầu tư sớm, chủ động sẽ giúp giảm đáng kể chi phí rủi ro dài hạn cho ngân sách nhà nước và góp phần bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản của người dân.
Một trong những điểm then chốt được đề cập là đẩy nhanh việc hoàn thiện bộ máy Quỹ Phòng, chống thiên tai Trung ương để sớm đi vào hoạt động hiệu quả. Quỹ cần được thống nhất quản lý, minh bạch hóa quy trình và tăng cường năng lực điều phối giữa Trung ương và địa phương. Khi đó, các nguồn lực tài chính mới được huy động và sử dụng đúng mục tiêu, tránh chồng chéo, thất thoát.
Để mở rộng phạm vi bảo vệ, đại biểu kiến nghị Việt Nam nên phát triển mạnh bảo hiểm rủi ro thiên tai, mở rộng diện bao phủ sang phòng ngừa và chia sẻ rủi ro; nghiên cứu thí điểm phát hành trái phiếu rủi ro thiên tai. Cơ chế này giúp Nhà nước chuyển rủi ro thiên tai sang nhà đầu tư quốc tế, nhằm tăng khả năng ứng phó thiên tai mà không làm tăng nợ công, hướng tới một cơ chế tài chính hiện đại.
Cùng với đó, Việt Nam nên tham gia xây dựng Quỹ dự phòng thiên tai khu vực ASEAN, tạo cơ chế chia sẻ rủi ro và hỗ trợ lẫn nhau giữa các quốc gia Đông Nam Á. Bên cạnh đó, việc thành lập Quỹ ứng phó biến đổi khí hậu quốc gia là bước đi cần thiết, nhằm huy động nguồn vốn quốc tế phục vụ đầu tư hạ tầng chống chịu khí hậu, bảo vệ dân sinh và thúc đẩy phát triển bền vững.
Đầu tư cho phòng ngừa rủi ro không chỉ là bảo vệ ngân sách, mà còn là đầu tư cho tương lai, cho sự an toàn và phát triển bền vững của đất nước.