Tiềm năng 1.000GW - nền móng cho trung tâm năng lượng xanh châu Á

Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, Cục Khí tượng Thủy văn phối hợp với Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) và Đại sứ quán Na Uy vừa công bố báo cáo đánh giá chi tiết tiềm năng tài nguyên gió ven biển và ngoài khơi. Đề nghị đồng chí cho biết đâu là ý nghĩa lớn nhất của báo cáo này?

Đồng chí Hoàng Đức Cường: Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một bộ dữ liệu khí hậu gió biển có độ phân giải cao 3x3km, với chuỗi thời gian kéo dài 30 năm (1991-2020). Báo cáo không chỉ cung cấp cái nhìn đầy đủ, khách quan về tiềm năng tài nguyên gió ngoài khơi mà còn tích hợp thông tin về hiện tượng thời tiết cực đoan. Điều này đặc biệt quan trọng khi xét đến yếu tố rủi ro thiên tai từ biển tới khai thác điện gió ngoài khơi. Về ý nghĩa thực tiễn, bộ dữ liệu là nền tảng khoa học quan trọng giúp các cơ quan quản lý hoạch định quy hoạch, hỗ trợ nhà đầu tư lựa chọn công nghệ, thiết kế dự án và đánh giá hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi, một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ nhưng rất hứa hẹn ở Việt Nam.

Đồng chí Hoàng Đức Cường. 

PV: Được biết, báo cáo ước tính tổng công suất điện gió ngoài khơi của Việt Nam có thể đạt hơn 1.000GW, một con số ấn tượng. Đồng chí đánh giá như thế nào về tiềm năng này?

Đồng chí Hoàng Đức Cường: Như chúng ta đã biết, Việt Nam có hơn 3.200km chiều dài đường bờ biển, thuộc vùng gió mùa châu Á, nơi có cường độ gió mạnh và ổn định. Các khu vực biển tại Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và thậm chí cả Bắc Bộ đều hội tụ điều kiện lý tưởng để phát triển điện gió. Tiềm năng hơn 1.000GW là rất lớn, thậm chí vượt xa nhu cầu tiêu thụ điện nội địa hiện tại. Điều này đặt Việt Nam vào vị trí có thể không chỉ tự chủ năng lượng tái tạo mà còn xuất khẩu điện xanh ra khu vực, góp phần vào quá trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu.        

Phải tháo gỡ nút thắt: Pháp lý, hạ tầng, vốn đầu tư và nhân lực

PV: Tiềm năng lớn chưa đồng nghĩa với khai thác hiệu quả. Đồng chí có thể chia sẻ cụ thể hơn về những khó khăn mà điện gió ngoài khơi Việt Nam đang đối mặt?

Đồng chí Hoàng Đức Cường: Trở ngại đầu tiên là chi phí đầu tư ban đầu rất cao, gấp 2 lần điện gió trên bờ. Mỗi dự án cần từ 5 đến 7 năm mới có thể hoàn thành, chưa kể thời gian cho các thủ tục pháp lý, khảo sát địa chất, đo gió, đánh giá tác động môi trường... Trong khi đó, thi công trên biển lại cực kỳ phức tạp, không phải doanh nghiệp nào cũng đủ năng lực thực hiện.

Rào cản lớn tiếp theo là hạ tầng truyền tải điện chưa đồng bộ. Nguồn điện từ các trang trại ngoài khơi cần được truyền về đất liền thông qua hệ thống cáp ngầm dài và phức tạp. Nếu không giải quyết được bài toán này thì dù có dự án, điện cũng không thể đến tay người tiêu dùng.

PV: Như vậy, ngoài nguồn tài nguyên gió, chúng ta cần thêm điều kiện gì để điện gió ngoài khơi thực sự “cất cánh”?

Đồng chí Hoàng Đức Cường: Trước hết, phải sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, đơn giản hóa và rút ngắn quy trình cấp phép, bảo đảm tính minh bạch, nhất quán và có thể dự báo được. Thứ hai là đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng cảng biển, hệ thống truyền tải và đào tạo nhân lực kỹ thuật cao chuyên về điện gió ngoài khơi. Ngoài ra, rất cần thiết lập cơ chế giá điện gió hấp dẫn, bảo đảm tính cạnh tranh để thu hút các nhà đầu tư, nhất là bối cảnh nhiều quốc gia trong khu vực cũng đang phát triển mạnh ngành này.

Cánh đồng điện gió xã Ninh Hải, tỉnh Khánh Hòa. Ảnh: MINH MINH 

Việt Nam có thể trở thành trung tâm công nghiệp điện gió biển

PV: Theo đồng chí, làm thế nào để Việt Nam có thể vươn lên trở thành trung tâm năng lượng tái tạo khu vực như mục tiêu đã đề ra?

Đồng chí Hoàng Đức Cường: Để đạt mục tiêu đó, cần nhìn nhận điện gió ngoài khơi không chỉ là nguồn năng lượng mà là một ngành công nghiệp mới. Chúng ta cần xúc tiến hình thành chuỗi giá trị hoàn chỉnh: Từ nghiên cứu, khảo sát, sản xuất thiết bị, xây dựng trang trại gió đến vận hành, bảo trì và dự báo. Đồng thời, nên thành lập các trung tâm nghiên cứu chuyên sâu, hợp tác với các tập đoàn có kinh nghiệm như Orsted, Equinor... để học hỏi và chuyển giao công nghệ.

PV: Việt Nam có thể tính đến việc xuất khẩu điện gió không, thưa đồng chí?

Đồng chí Hoàng Đức Cường: Hoàn toàn có thể. Với tiềm năng hơn 1.000GW, chúng ta hoàn toàn có thể tính tới việc kết nối lưới điện với các nước trong khu vực như Singapore, Malaysia, Philippines... Tuy nhiên, việc này đòi hỏi chiến lược dài hạn, đàm phán song phương và đầu tư lớn vào hệ thống truyền tải xuyên quốc gia. Trước mắt, cần chú trọng xây dựng mô hình thí điểm, xác lập tiêu chuẩn kỹ thuật và phát triển đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu quốc tế. Nếu làm bài bản, đây sẽ là cơ hội để Việt Nam không chỉ làm chủ ngành điện gió mà còn xuất khẩu cả công nghệ, dịch vụ và năng lượng xanh ra thế giới. 

PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí.

NGUYỄN HỒNG SÁNG (thực hiện)

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Kinh tế xem các tin, bài liên quan.